Mở đầu: Nồng độ cytokine và sự cân bằng giữa các cytokine tiền viêm và kháng viêm được xem là chỉ điểm
sinh học có giá trị trong việc đánh giá tiên lượng của nhiễm khuẩn huyết. Ở trong nước, lãnh vực này chưa được
nghiên cứu sâu và có hệ thống, vì thế chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu giá trị tiên lượng của các cytokine
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết” nhằm đánh giá vai trò cytokine trên tiên lượng sốc nhiễm khuẩn, rối loạn chức
năng đa cơ quan, tử vong của bệnh nhân NKH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân 16 tuổi, được chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001 (10) và có
bằng chứng vi sinh, nhập khoa HSCC- BVCR từ 03/2008 đến 03/ 2009. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiền
cứu, cắt ngang. Bệnh nhân vào nghiên cứu được lấy máu định lượng TNF-, IL-1a, IL-1b, IL-6, IL-8, IL-10
trong vòng 24 giờ sau nhập viện.
Kết quả: 65 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết theo tiêu chuẩn của ACCP/SCCM-2001 được
đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 21,75 ± 8,89 và SOFA: 12,67 ± 3,56. Có sự gia tăng nồng độ cytokine
trên bệnh nhân NKH so bình thường. Nồng độ TNF-: 43,61 ± 12,74; IL-1a: 15,34 ± 5,65; IL-1b: 16,31 ± 6,96;
IL-6: 236,87 ± 20,80; IL-8: 567,15 ± 56,30, và IL-10: 84,62 ± 27,24. Khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ
TNF-, IL-6, IL-10, tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF- giữa 2 nhóm có và không có sốc nhiễm khuẩn; có và không
có rối loạn chức năng đa cơ quan, giữa nhóm chết và sống với p lần lượt là p<0,01; 0,01; 0,01. Tỉ số IL-10/TNF-
≥ 5 có liên quan với tiên lượng tử vong của nhiễm khuẩn huyết, tỉ số chênh OR= 1,40 (1,01- 1,53), giá trị p=
0,004. Ngoài ra, tỉ số IL-6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân NKH tử vong (IL-6/IL-10= 3,26) cao hơn gấp 1,31 lần so với
nhóm bệnh nhân sống (IL-6/IL-10= 2,48).
Kết luận: Nồng độ của các cytokin tiền viêm TNF-, IL-1, IL-6, IL-8 và kháng viêm IL-10 ở bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết tăng cao so với bình thường. Nồng độ TNF-, IL-6, IL-10, tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF-
có khác biệt giữa nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết vào sốc và không vào sốc; có rối loạn chức năng đa cơ quan
và không rối loạn chức năng đa cơ quan; tử vong và sống còn. Tỉ số IL-10/TNF- ở nhóm bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết tử vong cao hơn gấp 1,2 lần so với ở nhóm bệnh nhân sống, Tỉ số IL-6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết tử vong cao hơn gấp 1,31 lần so với ở nhóm bệnh nhân sống.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị tiên lượng của các cytokin ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 68
GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG CỦA CÁC CYTOKIN
Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT
Phạm Thị Ngọc Thảo*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nồng độ cytokine và sự cân bằng giữa các cytokine tiền viêm và kháng viêm được xem là chỉ điểm
sinh học có giá trị trong việc đánh giá tiên lượng của nhiễm khuẩn huyết. Ở trong nước, lãnh vực này chưa được
nghiên cứu sâu và có hệ thống, vì thế chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu giá trị tiên lượng của các cytokine
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết” nhằm đánh giá vai trò cytokine trên tiên lượng sốc nhiễm khuẩn, rối loạn chức
năng đa cơ quan, tử vong của bệnh nhân NKH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân 16 tuổi, được chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001 (10) và có
bằng chứng vi sinh, nhập khoa HSCC- BVCR từ 03/2008 đến 03/ 2009. Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiền
cứu, cắt ngang. Bệnh nhân vào nghiên cứu được lấy máu định lượng TNF-, IL-1a, IL-1b, IL-6, IL-8, IL-10
trong vòng 24 giờ sau nhập viện.
Kết quả: 65 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết theo tiêu chuẩn của ACCP/SCCM-2001 được
đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 21,75 ± 8,89 và SOFA: 12,67 ± 3,56. Có sự gia tăng nồng độ cytokine
trên bệnh nhân NKH so bình thường. Nồng độ TNF-: 43,61 ± 12,74; IL-1a: 15,34 ± 5,65; IL-1b: 16,31 ± 6,96;
IL-6: 236,87 ± 20,80; IL-8: 567,15 ± 56,30, và IL-10: 84,62 ± 27,24. Khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ
TNF-, IL-6, IL-10, tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF- giữa 2 nhóm có và không có sốc nhiễm khuẩn; có và không
có rối loạn chức năng đa cơ quan, giữa nhóm chết và sống với p lần lượt là p<0,01; 0,01; 0,01. Tỉ số IL-10/TNF-
≥ 5 có liên quan với tiên lượng tử vong của nhiễm khuẩn huyết, tỉ số chênh OR= 1,40 (1,01- 1,53), giá trị p=
0,004. Ngoài ra, tỉ số IL-6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân NKH tử vong (IL-6/IL-10= 3,26) cao hơn gấp 1,31 lần so với
nhóm bệnh nhân sống (IL-6/IL-10= 2,48).
Kết luận: Nồng độ của các cytokin tiền viêm TNF-, IL-1, IL-6, IL-8 và kháng viêm IL-10 ở bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết tăng cao so với bình thường. Nồng độ TNF-, IL-6, IL-10, tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF-
có khác biệt giữa nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết vào sốc và không vào sốc; có rối loạn chức năng đa cơ quan
và không rối loạn chức năng đa cơ quan; tử vong và sống còn. Tỉ số IL-10/TNF- ở nhóm bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết tử vong cao hơn gấp 1,2 lần so với ở nhóm bệnh nhân sống, Tỉ số IL-6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết tử vong cao hơn gấp 1,31 lần so với ở nhóm bệnh nhân sống.
ABSTRACT
SERUM CONCENTRATIONS OF TNF-, IL-1, IL-6, IL-8 and IL-10 IN PATIENT WITH SEPSIS
Pham Thi Ngoc Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 68 - 73
Introduction: Serum concentration of cytokines and balance of these inflammatory and anti-inflammatory
cytokines play an important role in pathophysiology of sepsis. This issue has been reported for recent years in
developped countries. However, that yet studied in Vietnam. Therefore, we applied Biochip Array Technology –
EVIDENCE analyzer of Randox Laboratories Ltd, in measuring serum TNF-, IL-1, IL-6, IL-8, and IL-10
concentrations in patient with sepsis and revealed the relationship between those concentrations with clinical
characteristics, severity and outcome of patient with sepsis and septic shock.
* BV Chợ Rẫy;
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Thị Ngọc Thảo ĐT: 08-38554137 Email: thaocrh10@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 69
Patient and Method: Patient: From March 2008 to March 2009, adult patients with sepsis, admitted to
ICU of Cho Ray Hospital, met the diagnosis criteria of ACCP/SCCM 2001 and had microbiological evidence will
be recruited. Method: prospective, cross-sectional observation study. Serum TNF-, IL-1a, IL-1b, IL-6, IL-8, and
IL-10 will be quantified within the first 24 hours of admission.
Result: Of 65 patients diagnosed sepsis had been included, mean APACHE II score was: 21,75 ± 8,89; and
SOFA:12,67 ± 3,56. Serum concentrations of cytokines elevated in patient with sepsis, TNF-: 43,61 ± 12,74; IL-
1a: 15,34 ± 53,65; IL-1b: 16,31 ± 6,96; IL-6: 236,87 ± 20,80; IL-8: 567,15 ± 56,30; and IL-10: 84,62 ± 27,24.
There was a significantly differences between serum cytokine concentrations of TNF-, IL-6, IL-10, and IL-6/IL-
10 and IL-10/TNF- ratios in groups: patient with vs without septic shock, with vs without MODS and non-
survivors vs survivors (p< 0.01; 0.01; 0.01 respectively). The ratio of IL-10/TNF- 5 was related with mortality
of patient with sepsis, OR = 1.40 (1.01 – 1.53), p= 0.004. Furthermore, the ratio of IL-6/IL-10 in non-survivors
(IL-6/IL-10 = 3.26) was 1.31 folds higher than that of survivors (IL-6/IL-10 = 2.48).
Conclusion: Serum TNF-, IL-1, IL-6, IL-8, IL-10 elevated in patients with sepsis. There was a
significantly differences between serum cytokine concentrations of TNF-, IL-6, IL-10, and IL-6/IL-10 and IL-
10/TNF- ratios in groups: patient with vs without septic shock, with vs without MODS and non-survivors vs
survivors. The ratio of IL-10/TNF- was 1.20 folds and IL-6/IL-10 in non-survivors was 1.31 folds higher than
that of survivors.
MỞ ĐẦU
Nồng độ cytokine trong máu và sự cân bằng
giữa các cytokine tiền viêm và kháng viêm được
xem là chỉ điểm sinh học có giá trị trong việc
đánh giá tiên lượng của nhiễm khuẩn huyết.
Đây là những tác nhân trung gian điều hòa
quan trọng trong sinh lý bệnh của NKH. Tuy
nhiên, cytokin được phóng thích nhanh chóng
vào máu trong vòng 24 giờ sau khi nhiễm
khuẩn nặng và nồng độ cytokine trong máu
thay đổi theo thời gian. Hiện nay, các nhà
khoa học thế giới vẫn tiếp tục nghiên cứu và
còn nhiều bàn cãi về vai trò tiên lượng của các
cytokine. Ở trong nước, lãnh vực này chưa
được nghiên cứu sâu và có hệ thống, vì thế
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu lâm
sàng và giá trị tiên lượng của cytokine tiền viêm
và kháng viêm trên bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết” nhằm đánh giá vai trò cytokine trên
tiên lượng sốc nhiễm khuẫn, rối loạn chức
năng đa cơ quan và tử vong của bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Dân số chọn mẫu: bệnh nhân nặng nhập
khoa HSCC- BVCR, 16 tuổi, từ tháng 10/ 2008
đến tháng 10/ 2009 với Tiêu chuẩn chọn bệnh: theo
định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán NKH 2001.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiền cứu mô tả cắt ngang.
- BN NKH lấy mẫu TNF-, IL-1a, IL-1b, IL-6,
IL-8, IL-10 trong 24 giờ, định lượng với công
nghệ Biochip array, máy Evidence
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng thống kê y học Stata
8.0.
KẾT QUẢ
Từ tháng 10/2008 đến tháng 10/2009, có 65
bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết
theo tiêu chuẩn của ACCP/SCCM-2001 và có
bằng chứng vi sinh.
Đặc tính bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
trong nghiên cứu
Mức độ nặng của bệnh: Điểm APACHE II:
21,75 ± 8,89 (8 – 41).
Điểm SOFA: 12,67 ± 3,56 (5 – 20).
Tuổi thấp nhất là 21, cao nhất là 81, trung
bình là 58,26 ± 17,42.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 70
Trung bình số cơ quan bị rối loạn chức năng:
3,62± 0,14.
Bảng 1:
Số bệnh nhân (trường hợp) Tỷ lệ (%)
Thể bệnh
Nhiễm khuẩn huyết nặng 12 18,46
Sốc nhiễm khuẩn 53 81,54
Đường vào của nhiễm khuẩn huyết
Hô hấp 23 35,38
Tiêu hóa, gan mật 18 27,69
Tiết niệu 12 18,46
Da, mô mềm 7 10,77
Cơ, xương, khớp 4 6,15
Chưa rõ đường vào 1 1,55
Kết quả vi sinh
Cấy máu (+) 25 38,46
Cấy đàm (+) 38 58,46
Cấy nước tiểu (+) 9 13,85
Cấy dịch khác (vết thương,
mật, dẫn lưu, não tủy) (+) 9 13,85
Nồng độ TNF-, Il-1, IL-6, IL-8, IL-10 trong
nhiễm khuẩn huyết
Bảng 2:
Nồng độ (pg/ml) Giá trị bình
thường(8)
Nhiễm khuẩn huyết
TNF- <11 43,61 ± 12,74
IL-1a <11 15,34 ± 5,65
IL-1b <14,5 16,31 ± 6,96
IL-6 <1,23 236,87 ± 20,80
IL-8 159,4 567,15 ± 56,30
IL-10 1,9 84,62 ± 27,24
Liên quan giữa nồng độ TNF-, Il-1, IL-6,
IL-8, IL-10 và sốc nhiễm khuẩn
Bảng 3:
Thể bệnh
Nđộ
(pg/ml)
Sốc nhiễm
khuẩn
(n=53)
Không sốc
nhiễm khuẩn
(n=12)
Mức
ý nghĩa (p)
TNF- 45,05 ± 13,24 18,33 ± 8,04 <0,01
IL-1a 15,51 ± 7,30 13,86 ± 2,82 0,54
IL-1b 16,82 ± 5,03 15,63 ± 3,19 0,23
IL-6 265,84 ± 27,65 142,41 ± 23,75 <0,01
IL-8 631,03 ± 90,15 474,53 ± 79,20 0,52
IL-10 110,48 ± 25,09 47,11 ± 13,43 0,004
Khác biệt nồng độ TNF-, IL-1 (a,b), IL-6, IL-
10 giữa sốc nhiễm khuẩn và không sốc nhiễm
khuẩn có ý nghĩa thống kê (dùng test so sánh
Mann Whitney).
Liên quan giữa nồng độ cytokines và rối
loạn chức năng đa cơ quan (theo tiêu
chuẩn Knaus)
Bảng 4:
NỒNG
ĐỘ
Không rối loạn
chức năng đa cơ
quan (n=15)
Rối loạn chức
năng đa cơ quan
(n=50)
MỨC Ý
NGHĨA (p)
TNF- 12,50 ± 6,59 49,50 ± 16,23 0,01
IL-1a 14,24 ± 6,28 16,52 ± 12,19 0,41
IL-1b 5,08 ± 3,19 26,6 ± 3,92 0,75
IL-6 138,29 ± 58,24 285,12 ± 47,65 0,01
IL-8 521,21 ± 85,86 627,32 ± 91,63 0,18
IL-10 59,18 ± 9,68 122,20 ± 47,77 0,01
Liên quan giữa nồng độ cytokines và tiên
lượng sống còn
Bảng 5:
NỒNG ĐỘ Sống (n=51) Tử vong (n=14) MỨC Ý
NGHĨA (p)
TNF- 42,52 ± 6,18 81,5 ± 6,23 0,01
IL-1a 13,15 ± 4,39 16,37 ± 17,87 0,41
IL-1b 15,44 ± 5,63 21,6 ± 3,92 0,75
IL-6 142,41 ± 28,36 265,84 ± 27,65 0,01
IL-8 380,45 ± 123,91 718,67 ± 191,63 0,18
IL-10 57,30 ± 9,68 132,20 ± 47,77 0,01
IL-6/IL-10 2,48 ± 3,24 3,26 ± 1,87 0,04
IL-10/TNF-α 1,35 ± 0,67 1.62 ± 0,94 0,04
Khác biệt nồng độ TNF-, IL6, IL-10 giữa
nhóm sống và tử vong có ý nghĩa thống kê.
Phân tích hồi quy đa biến từng bước với
các biến khác biệt có ý nghĩa thống kê, kết quả
thu được:
Bảng 6:
Biến OR Giá trị p Khoảng tin cậy
IL-6 1,02 0,01 1,0015- 1,0156
IL10 1,18 0,004 1,0034- 1,4253
IL-6/IL-10 1,23 0,02 1,0021- 1, 0145
IL-10/TNF-α 1,40 0,004 1,0056- 1,5268
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân vào nghiên cứu
65 bệnh nhân NKH vào nghiên cứu biểu
hiện bởi hai thể bệnh là nhiễm khuẩn huyết
nặng và sốc nhiễm khuẩn, điểm APACHE II
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 71
trung bình là 22 và SOFA là 12. Tỷ lệ cấy máu
dương tính là 25 trường hợp (38,46%), không có
sự khác biệt giữa hai nhóm cấy máu dương tính
và âm tính về tiên lượng. Vi khuẩn dương tính
trong cấy máu gồm các vi khuẩn gram âm
(chiếm đa số), gram dương, nhưng không tìm
thấy các loại như nấm, kỵ khí, serratia. Có
trường hợp hiện diện trong máu hai loại vi
khuẩn. Hô hấp và tiêu hóa, gan mật là ngõ vào/
ổ nhiễm quan trọng. Tỷ lệ thở máy cao (56/ 65
trường hợp) góp phần làm tăng tỷ lệ nhiễm
trùng từ đường hô hấp.
Nồng độ các cytokin TNF-, IL-1, IL-6, IL-8,
IL-10 tăng cao trong nhiễm khuẩn huyết
Trong nhiễm khuẩn huyết, nồng độ các
cytokin TNF-, IL-1, IL-6, IL-8, IL-10 tăng cao.
Ghi nhận này phù hợp với các báo cáo của các
tác giả khác(1,2,3,4).
Liên quan giữa nồng độ các cytokin TNF-
, IL-1, IL-6, IL-8, IL-10 với sốc nhiễm
khuẩn, rối loạn chức năng đa cơ quan và tử
vong
Các nghiên cứu lâm sàng và cơ bản hiện nay
cho rằng dòng thác cytokine là cơ chế bệnh học
chủ yếu gây nhiễm khuẩn huyết, rối loạn chức
năng đa cơ quan. Các cytokine gây viêm như
TNF-, IL-1, IL-6 và IL-8 có vai trò quan trọng
trong việc khởi phát đáp ứng viêm của cơ thể
đối với nhiễm khuẩn. Nồng độ các cytokine gây
viêm tăng cao có tương quan với sốc nhiễm
khuẩn, rối loạn chức năng đa cơ quan và tử
vong. Một vài nghiên cứu đề xuất sử dụng nồng
độ cytokine gây viêm làm thông số đánh giá
tiên lượng cho bệnh nhân NKH. Ghi nhận trong
nghiên cứu cho thấy:
Yếu tố hoại tử u (TNF-) là chất trung gian
hóa học quan trọng trong nhiễm khuẩn huyết,
rối loạn chức năng đa cơ quan. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, nồng độ TNF- trong huyết
tương của bệnh nhân NKH là 43,61 ± 12,74, cao
hơn giá trị trung bình ở người bình thường
(<11pg/ml). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về nồng độ TNF- giữa nhóm bệnh nhân NKH
vào sốc, có rối loạn chức năng đa cơ quan và tử
vong (<0,01; 0,01; 0,01).
Nghiên cứu về nhiễm khuẩn huyết,
Damas(2), ghi nhận có sự gia tăng rất lớn của
nồng độ TNF-, IL-1β trên các bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết nặng. Trị số ghi nhận TNF-α là 701
± 339 pg/ml, trung vị 250 pg/ml (100- 5000). Ông
cũng ghi nhận có sự tương quan giữa nồng độ
TNF- với mức độ nặng và tiên lượng tử vong
của sốc nhiễm khuẩn. Ngược lại, nồng độ IL-1β
tăng nhẹ và không có sự tương quan với mức độ
nặng và tử vong như TNF-α.
Interleukin-6 có vai trò quan trọng trong biệt
hóa tế bào B thành các tế bào tạo kháng thể.
Trong huyết tương bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết vào nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
IL-6 tăng đến 236,87 ± 20,80. Chúng tôi nhận
thấy nồng độ IL-6 có liên quan đến sốc nhiễm
khuẩn, rối loạn chức năng đa cơ quan. Nếu
IL-6 tăng sẽ làm tăng nguy cơ tử vong 1,02
(1,0015-1,0156).
Còn nhiều tranh luận về khả năng tiên
lượng của nồng độ IL-6 ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết. Theo Damas(1), nồng độ IL-6 tăng
cao trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết (lên đến
500pg/ml) và có tương quan với mức độ nặng,
sốc nhiễm khuẩn, rối lọan chức năng đa cơ
quan, tử vong của bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng. Theo Patel(7), ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn nặng ổ bụng, Il-6 có nồng độ tăng cao
(50- 25.000 pg/ml). Có sự khác biệt về nồng độ
IL-6 giữa nhóm bệnh nhân tử vong và nhóm
bệnh nhân sống, IL-6 có khả năng tiên đóan tử
vong với độ nhạy 86,4% và độ đặc hiệu 78,9%.
Ngòai ra trong nghiên cứu này, Patel còn
nhận thấy nồng độ IL-6 còn tương quan với
mức độ nặng của bệnh, rối lọan chức năng đa
cơ quan, điểm APACHE II với độ nhạy 72,7%,
độ đặc hiệu 57,9%.
Interleukin-8 giữ vai trò quan trọng trong
đáp ứng viêm cấp tính. Tại nơi xảy ra quá trình
viêm, IL-8 nhanh chóng được tổng hợp và thực
hiện chức năng huy động và kích hoạt các tế bào
viêm. Trong huyết tương bệnh nhân nhiễm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 72
khuẩn huyết vào nghiên cứu của chúng tôi,
nồng độ IL-8 tăng đến 567,15 ± 56,30. Không có
sự khác nhau về nồng độ IL-8 giữa nhóm bệnh
nhân SNK và không SNK, giữa nhóm có rối loạn
chức năng đa cơ quan và không rối loạn chức
năng đa cơ quan, giữa nhóm bệnh nhân sống và
tử vong.
Interleukin-10 được xem là cytokin kháng
viêm, có vai trò rất quan trọng trong hội chứng
đáp ứng kháng viêm bù trừ (CARS-
compensatory anti-inflammatory reaction
syndrome). Nồng độ IL-10 tăng cao là dấu hiệu
quan trọng của độ nặng và tiên lượng tử vong
của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng, rối
loạn chức năng đa cơ quan. Theo Gogos(4), ở
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, IL-10 có thể tăng
cao từ ngày vào viện cho đến 48 giờ sau nhập
viện và khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm
sống và tử vong (p<0,01).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
IL-10 của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết tăng
84,62 ± 27,24 cao gấp 42,25 lần so với trị số bình
thường. Đồng thời, trung vị của nồng độ IL-10 ở
nhóm bệnh nhân tử vong tăng cao gấp 2,34 lần
so với nhóm bệnh nhân sống (p=0,02). Chúng tôi
cũng ghi nhận: nồng độ IL-10 ≥ 50 pg/mL có liên
quan với nguy cơ tử vong, tỷ số chênh OR = 3,54
(1,23 – 10,13), giá trị p=0,01.
Tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF- phản ánh
sự cân bằng trong phản ứng viêm và kháng
viêm của cơ thể. Tỉ số IL-6/IL-10 và IL-10/TNF-
cao tương quan với tiên lượng tử vong ở bệnh
nhân sốc nhiễm khuẩn và rối loạn chức năng đa
cơ quan(5). Theo Lameire, kết hợp của tăng nồng
độ TNF- và giảm sản xuất IL-10 sẽ tăng nguy
cơ tử vong ở bệnh nhân suy thận cấp so với
nồng độ TNF- thấp đi kèm với tăng sản xuất
IL-10(9,10).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ số IL-
10/TNF- ở nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết, rối loạn chức năng đa cơ quan, tử vong
(IL-10/TNF- = 1,62) cao hơn gấp 1,2 lần so với
nhóm bệnh nhân sống (IL-10/TNF- =1,35), khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,04). Hơn nữa, tỉ số
IL-10/TNF- ≥ 5 có liên quan với tiên lượng tử
vong của nhiễm khuẩn huyết, tỉ số chênh OR=
1,3952 (1,0056- 1,5268), giá trị p= 0,0043. Ngoài
ra, tỉ số IL-6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân NKH tử
vong (IL-6/IL-10= 3,26) cao hơn gấp 1,31 lần so
với nhóm bệnh nhân sống (IL-6/IL-10= 2,48).
Ghi nhận của chúng tôi phù hợp với
Gogos(4), trong nghiên cứu này, tỉ số IL-10/TNF-
ở nhóm bệnh nhân tử vong tăng cao hơn gấp
1,74 lần so với nhóm bệnh nhân sống (p=0,05).
KẾT LUẬN
Nồng độ của các cytokin tiền viêm TNF-,
IL-1, IL-6, IL-8 và kháng viêm IL-10 ở bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết tăng cao so với bình
thường. Nồng độ TNF-α, IL-6, IL-10, tỉ số IL-
6/IL-10 và IL-10/TNF- có khác biệt giữa nhóm
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết vào sốc và không
vào sốc; có rối loạn chức năng đa cơ quan và
không rối loạn chức năng đa cơ quan; tử vong
và sống còn. Tỉ số IL-10/TNF- ở nhóm bệnh
nhân nhiễm khuẩn huyết tử vong cao hơn gấp
1,2 lần so với ở nhóm bệnh nhân sống, Tỉ số IL-
6/IL-10 ở nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
tử vong cao hơn gấp 1,31 lần so với ở nhóm
bệnh nhân sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Damas P, Ledoux D, Nys M, Vrindts Y, De Groote D,
Franchimont P, Lamy M. Cytokine serum level during severe
sepsis in human IL-6 as a marker of severity (1992 Apr) Ann
Surg. 215 (4):356-62
2. Damas P, Reuter A, Gysen P, Demonty J, Lamy M, Franchimont
P (1989). Tumor necrosis factor and interleukin-1 serum levels
during severe sepsis in humans. Crit Care Med 17 (10): 975-8
3. Gardlund B, Sjolin J, Nilsson A, Roll M, Wickerts CJ, Wretlind B
(1995), “Plasma levels of cytokines in primary septic shock in
humans: correlation with disease severity”, J Infect Dis, 172, pp.
296-301.
4. Gogos CA, Drosou E, Bassaris HP, Skoutelis A. (2000), “Pro-
versus anti-inflammatory cytokine profile in patients with severe
sepsis, a marker for prognosis and future therapeutic options”, J
Infect Dis, 181, pp. 176–180.
5. Hamano Kimikazu (1998), “Increased serum interleukin-8
correlation with poor prognosis in patients with postoperative
multiple organ failure”, World J. Surg, 22, pp. 1077–1081.
6. Mitchell M. Levy, Mitchell P. Fink, John C. Marshall, Edward
Abraham, Derek Angus, Deborah Cook, Jonathan Cohen,
Steven M. Opal, Jean-LouisVincent, Graham Ramsay. (2003).
2001 SCCM/ESICM/ACCP/ATS/SIS International Sepsis
Definitions Conference. Crit Care Med; 31(4): 1250-1256
7. Patel RT, Deen KI, Youngs D, Warwick J, Keighley MR (1994),
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 73
“Interleukin 6 is a prognostic indicator of outcome in severe
intra-abdominal sepsis”, Br J Surg, 81, pp.1306-1308.
8. Phan Thị Danh (2005), “Sử dụng kỹ thuật Biochip trong xét
nghiệm và ứng dụng lâm sàng cytokines”. Website BV. Chợ
Rẫy, bvchoray@hcm.vnn.vn
9. Pinsky MR, Vincent JL, Deviere J, et al. (1993), “Serum cytokine
levels in human septic shock. Relation to multiple-system organ
failure and mortality”, Chest, 103, pp. 565-575.
10. S. Harbarth, K. Holeckova, C. Froidevaux, D. Pittet, B. Ricou, G.
E. Grau, L. Vadas, J. Pugin, And The Geneva Sepsis Network
(2001), ”Diagnostic Value of Procalcitonin, Interleukin-6, and
Interleukin-8 in Critically Ill Patients Admitted with Suspected
Sepsis”, Am. J. Respir. Crit. Care Med., 164, (3), pp. 396 - 402.