Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của giáo dục sức khỏe (GDSK) bằng truyền thông trực tiếp (TTTT) kết hợp
phát tờ bướm so với phát tờ bướm đơn thuần trong phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi,
TP. HCM năm học 2008 - 2009.
Phương pháp: Thử nghiệm can thiệp cộng đồng có đối chứng được tiến hành trên 1.576 phụ huynh (PH)
có con học tại 6 trong 28 trường mẫu giáo thuộc huyện Củ Chi, năm học 2008-2009 (chọn trường bằng rút
thăm). Mẫu nghiên cứu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm A: GDSK bằng TTTT và phát tờ bướm,
nhóm B: phát tờ bướm đơn thuần. GDSK được nhắc lại bằng phát tờ bướm sau một tháng và thư nhắc sau hai
tháng kể từ lần GDSK đầu tiên. Sử dụng bảng câu hỏi để thu thập thông tin hành chánh, kiến thức (KT) và thực
hành (TH) của PH. Tỷ lệ KT, TH được đánh giá trước và sau GDSK. Phân tích số liệu bằng Stata 10.0.
Kết quả: KT, TH đúng trước GDSK ở nhóm A đạt 53,31% và 48,18%; nhóm B đạt 63,13% và 49,38%.
Sau 3 lần GDSK trong 2 tháng, KT chưa đúng ở cả hai nhóm đều giảm với RR = 0,57 (0,45 – 0,70) ở nhóm A và
0,58 (0,44 – 0,78) ở nhóm B; TH sai giảm mạnh trong nhóm B, chỉ bằng 0,43 (0,31 – 0,58) so với trước GDSK,
nhóm A giảm ít hơn: RR = 0,74 (0,60 – 0,91). KT, TH đúng sau GDSK có liên quan với nhau (OR = 1,89 (1,51
– 2,37)) và bị chi phối bởi KT, TH ban đầu, phân hiệu của trẻ, nghề nghiệp và quan hệ của PH với trẻ (p<0,01).
Tuy nhiên, chưa chứng minh được mối liên quan giữa biện pháp GDSK với KT, TH (p>0,05).
Kết luận & đề xuất: GDSK bằng phát tờ bướm hoặc TTTT đều đạt hiệu quả trong việc nâng cao KT, TH
về phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi. Phát tờ bướm dễ thực hiện, ít tốn kém, có thể được
khuyến cáo áp dụng rộng rãi cho cộng đồng và cần lập lại nhiều lần nhằm cung cấp và củng cố thông tin đúng
cho PH, góp phần giảm tỉ lệ bệnh.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của các biện pháp giáo dục sức khỏe trong phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2008-2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 11
HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC SỨC KHỎE
TRONG PHÒNG NGỪA NHIỄM GIUN KIM Ở TRẺ MẪU GIÁO
HUYỆN CỦ CHI, TP. HCM, NĂM HỌC 2008-2009
Nhữ Thị Hoa, Nguyễn Hằng Giang*, Lê Thị Vân Trang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của giáo dục sức khỏe (GDSK) bằng truyền thông trực tiếp (TTTT) kết hợp
phát tờ bướm so với phát tờ bướm đơn thuần trong phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi,
TP. HCM năm học 2008 - 2009.
Phương pháp: Thử nghiệm can thiệp cộng đồng có đối chứng được tiến hành trên 1.576 phụ huynh (PH)
có con học tại 6 trong 28 trường mẫu giáo thuộc huyện Củ Chi, năm học 2008-2009 (chọn trường bằng rút
thăm). Mẫu nghiên cứu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm A: GDSK bằng TTTT và phát tờ bướm,
nhóm B: phát tờ bướm đơn thuần. GDSK được nhắc lại bằng phát tờ bướm sau một tháng và thư nhắc sau hai
tháng kể từ lần GDSK đầu tiên. Sử dụng bảng câu hỏi để thu thập thông tin hành chánh, kiến thức (KT) và thực
hành (TH) của PH. Tỷ lệ KT, TH được đánh giá trước và sau GDSK. Phân tích số liệu bằng Stata 10.0.
Kết quả: KT, TH đúng trước GDSK ở nhóm A đạt 53,31% và 48,18%; nhóm B đạt 63,13% và 49,38%.
Sau 3 lần GDSK trong 2 tháng, KT chưa đúng ở cả hai nhóm đều giảm với RR = 0,57 (0,45 – 0,70) ở nhóm A và
0,58 (0,44 – 0,78) ở nhóm B; TH sai giảm mạnh trong nhóm B, chỉ bằng 0,43 (0,31 – 0,58) so với trước GDSK,
nhóm A giảm ít hơn: RR = 0,74 (0,60 – 0,91). KT, TH đúng sau GDSK có liên quan với nhau (OR = 1,89 (1,51
– 2,37)) và bị chi phối bởi KT, TH ban đầu, phân hiệu của trẻ, nghề nghiệp và quan hệ của PH với trẻ (p<0,01).
Tuy nhiên, chưa chứng minh được mối liên quan giữa biện pháp GDSK với KT, TH (p>0,05).
Kết luận & đề xuất: GDSK bằng phát tờ bướm hoặc TTTT đều đạt hiệu quả trong việc nâng cao KT, TH
về phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi. Phát tờ bướm dễ thực hiện, ít tốn kém, có thể được
khuyến cáo áp dụng rộng rãi cho cộng đồng và cần lập lại nhiều lần nhằm cung cấp và củng cố thông tin đúng
cho PH, góp phần giảm tỉ lệ bệnh.
Từ khóa: giun kim, tái nhiễm, giáo duc sức khỏe, kiểm soát nhiễm giun kim, phòng ngừa nhiễm giun kim
ABSTRACT
THE EFFECT OF HEALTH EDUCATION METHODS ON CONTROLLING ENTEROBIASIS IN
KINDERGATEN CHILDREN IN CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY SCHOOL YEAR 2008 – 2009
Nhu Thi Hoa, Nguyen Hang Giang, Le Thi Van Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 11 - 17
Objective: to assess the effect of health education methods: direct communication and flyers versus unique
flyers on preventing enterobiasis in kindergarten children in Cu Chi district, HCM City 2008 - 2009.
Subjects & method: this community intervention study was carried out among 1576 parents of children
belonging to 6 kindergartens that were randomly selected from 28 kindergartens in Cu Chi district, HCM City.
The studied subjects were randomly divided into two groups: group A received direct health education & flyers,
just flyers for group B. Distributing flyers and remind-letters was done after one month and two months,
Bộ môn Ký Sinh–Vi Nấm Học, trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: Ths. Nhữ Thị Hoa ĐT : 0903379566 Email : drnhuhoa@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 12
respectively, from first health education. Using the questionaire to collect data on administration, knowledge and
practice of parents. The rates of knowledge and practice were assessed before and after intervention. Data was
analysed by Stata 10.0.
Results: The rates of correct knowledge and practice before intervention are 53.31% and 48.18% in group A;
63.13% and 49.38% in group B, respectively. After three times of health education in 2 months, the rate of
incorrect knowledge and practice decreased in both groups: RR = 0.57 (0.45 – 0.70) and 0.74 (0.60 – 0.91) in
group A; RR = 0.58 (0.44 – 0.78) and 0.43(0.31 – 0.58) in group B. The rate of correct knowledge and practice
after intervention relates each other (OR =1.89(1.51 – 2.37)) and is influenced strongly by original cognition and
behavior, the center or branch of school, career of parents and people who directly take care of children (p <0.01).
However, this study has not yet demonstrated the relationship between health education methods and the rate of
correct knowledge and practice (p>0.05).
Conclusion & suggestion: Using flyers or direct communication improved equally on knowledge and
practice of parents of kindergarten children in Cu Chi district. But the former is simplier and doesn’t require time
or human resources, therefore, it is recommended for applying popularly to the community. It is also necessary to
repeat health education in order to ameliorate knowledge and practice of parents, contributing to control of
enterobiasis in kindergarten children.
Key words: Enterobius vermicularis, pinworm, pinworm infestation, enterobiasis, pinworm control,
prevention on enterobiasis, health education, reinfestaion.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột khá phổ
biến tại các nước nhiệt đới, nhất là những nước
đang phát triển, trong đó giun kim (Enterobius
vermicularis) xuất hiện khắp nơi trên thế giới do
khả năng lây nhiễm trực tiếp, không phụ thuộc
vào điều kiện khí hậu, địa lý. Yếu tố chính liên
quan đến nhiễm giun kim là “vệ sinh”. Vào năm
1994, y văn thông báo khoảng 1 tỉ người nhiễm
giun kim(1), tập trung chủ yếu ở trẻ sống trong
môi trường đông đúc như nhà trẻ, mẫu giáo.
Mười năm sau, Corry ước tính hơn 30% trẻ trên
thế giới bị nhiễm Enterobius vermicularis(2). Ở Việt
Nam, trước năm 2007, các tác giả ghi nhận nhiều
kết quả khác nhau, thay đổi theo vùng: 18,5 –
47%(3,4,6,8,9,16,17), thậm chí lên đến 73,45%(10). Riêng
tại Củ Chi, khoảng 22 – 31% phết Graham
dương tính nhưng đôi khi 50% ở
một vài xã(11,12,15). Ngoài tính phổ biến, bệnh có
thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe bệnh nhân
nhất là trẻ em: suy dinh dưỡng, chậm phát triển
tâm thần vận động(1,2) , hoặc gây viêm nhiễm cơ
quan sinh dục, đường tiết niệu, ruột thừa, do
biến chứng lạc chỗ.
Tỷ lệ nhiễm cao cùng với tác hại lâu dài của
bệnh đã đặt ra yêu cầu giải quyết mầm bệnh.
Nhiều hoạt chất tẩy giun được tổng hợp với
hiệu quả cao, > 90%(15). Tuy nhiên, hiện tượng tái
nhiễm vẫn đáng lo ngại, khoảng 15,5% vào
tháng thứ 3(15) hoặc 44,7% vào tháng thứ 6 sau
điều trị(5). Như vậy, xổ giun định kỳ chưa đủ
ngăn chặn bệnh vì các trường hợp không đáp
ứng với thuốc vẫn tiếp tục phát tán mầm bệnh
vào môi trường và gây tái nhiễm nếu không áp
dụng các biện pháp phòng ngừa.
Nói cách khác, một khoảng trống đã tồn tại
trong chiến lược tẩy giun định kỳ. Khoảng trống
này phải được lấp đầy bằng các biện pháp
phòng ngừa nhiễm giun kim. Nhưng bao nhiêu
phần trăm trong cộng đồng đã biết cách phòng
ngừa và đã thực hiện đúng? Thiết nghĩ tỷ lệ này
không cao vì con số tái nhiễm không được khả
quan như đã đề cập. Thật vậy, KT, TH đúng nói
chung của PH về nhiễm giun kim tại Thái Bình
lần lượt là >67% và >27%(6); tại Củ Chi khoảng
46% và 30,1%(13). Điều này chứng tỏ việc truyền
thông cho cộng đồng về phòng ngừa nhiễm
giun kim là cần thiết. Tuy nhiên “lựa chọn và
kết hợp các biện pháp giáo dục sức khỏe như thế
nào để đạt hiệu quả cao nhất?”. Vì thế nghiên
cứu này được thực hiện tại huyện Củ Chi, nơi
có tỉ lệ nhiễm giun kim khá cao, với mong muốn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 13
tìm ra phương pháp GDSK hiệu quả, khả năng
ứng dụng cao và ít tốn kém, góp phần kiểm soát
bệnh giun kim nói riêng và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng nói chung.
ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có nhóm
chứng được tiến hành tại 6 trong 28 trường mẫu
giáo thuộc huyện Củ Chi, TP. HCM (rút thăm
ngẫu nhiên) năm học 2008-2009, với mong
muốn ứng dụng kết quả lên trẻ 3 – 5 tuổi trong
huyện. Tất cả PH của trẻ học tại 6 trường trên,
có mặt suốt thời gian nghiên cứu và đồng ý
tham gia đều được phân bố ngẫu nhiên vào 2
nhóm: nhóm A: TTTT & phát tờ bướm; nhóm B:
phát tờ bướm đơn thuần. Cỡ mẫu tối thiểu cho
mỗi nhóm là 447 PH, được tính dựa trên công
thức ước lượng một nguy cơ tương đối với α =
5%, độ chính xác mong muốn ε = 20%, p tham
khảo về KT đúng, TH đúng của hai nhóm
nghiên cứu lần lượt là: pKT-A= 95,9%, pKT-B =
67,5%, pTH-A= 72,6%, pTH-B = 28,4%(7), hệ số giảm
hiệu ứng mẫu cụm = 2.
GDSK được tiến hành 3 đợt, khoảng cách
giữa 2 đợt là 1 tháng. Đợt 1: TTTT từng nhóm
nhỏ cho tất cả PH trong nhóm A (khoảng 50
PH/nhóm); phát tờ bướm cho PH nhóm B. Đợt
2: phát tờ bướm cho PH cả 2 nhóm. Đợt 3: gửi
thư nhắc đến tất cả PH tham gia. Nội dung
GDSK của 3 hình thức trên đều nhấn mạnh đến
các biện pháp phòng ngừa nhiễm giun kim. Thu
thập thông tin bằng bảng câu hỏi cấu trúc phát
cho PH tự điền trước GDSK để đánh giá đầu
vào và 1 tháng sau GDSK lần 3 để đánh giá hiệu
quả can thiệp. Sử dụng tần số, tỷ lệ để đo lường
KT, TH của PH; kiểm định χ2, MacNemar ở mức
ý nghĩa 5% và RR (KTC 95%) để đo lường sự
khác biệt về KT, TH trước và sau GDSK giữa 2
nhóm cũng như trong từng nhóm. Khử nhiễu
bằng phương pháp hồi quy logistic.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm A
(NA = 936)
n (%)
Nhóm B
(NB = 640)
n (%)
p (χ2)
Người chăm sóc trẻ (NCS trẻ)
Mẹ 818 (87,4) 524 (819)
< 0,01
Khác 118 (12,6) 116 (18,1)
Dân tộc của PH
Kinh 993 (99,7) 631 (98,6)
< 0,02
Khác 3 (0,3) 9 (1,4)
Nghề của PH
Trí óc 26 (2,8) 97 (15,2)
< 0,01
Chân tay 910 (97,2) 543 (84,8)
TĐHV của PH
> cấp 2 145 (15,5) 242 (37,8)
< 0,01
≤ cấp 2 791 (84,5) 398 (62,2)
Tuổi của PH
≥30 559 (59,8) 396 (61,9) > 0,39
<30 377 (40,2) 244 (38,1)
Phân hiệu
Điểm lẻ 415 (48,6) 615 (96,1) < 0,01
Điểm chính 481 (51,4) 25 (3,9)
Phân lớp
Lá 692 (73,9) 324 (50,6) < 0,01
Chồi 244 (26,1) 316 (49,4)
KT của PH
Đúng 499 (53,3) 404 (63,1) < 0,01
Sai 437 (46,7) 236 (36,9)
TH của PH
Đúng 451 (48,2) 316 (49,4) > 0,64
Sai 485 (51,8) 324 (50,6)
Ngoại trừ tuổi và thực hành trước GDSK của
PH, các thuộc tính còn lại phân bố không đều
giữa 2 nhóm.
Bảng 2: So sánh kiến thức, thực hành trước và sau
GDSK trong nhóm A (NA = 936).
Đặc điểm
Sau GDSK P
McNemar
RR
(KTC 95%) Đúng Sai
T
rư
ớ
c
G
D
S
K
KIẾN THỨC (nhóm A)
Triệu chứng bệnh
Đúng 330 146
<0,01
0,62
(0,50 – 0,77) Sai 234 226
Yếu tố nguy cơ
Đúng 55 143
> 0,27
Sai 125 613
Biện pháp phòng ngừa
Đúng 589 92
< 0,01
0,64
(0,49 – 0,84) Sai 143 112
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 14
Đặc điểm
Sau GDSK P
McNemar
RR
(KTC 95%) Đúng Sai
Kiến thức chung
Đúng 367 132
< 0,01
0,57
(0,45 – 0,70) Sai 233 204
THỰC HÀNH (nhóm A)
Cắt móng tay cho trẻ
Đúng 466 185
> 0,4
Sai 170 115
Rửa hậu môn cho trẻ
Đúng 448 121
<0,01
0,61
(0,48 – 0,77) Sai 197 170
Vệ sinh nhà cửa
Đúng 6 14
<0,01
0,31
(0,16 – 0,58) Sai 45 871
Thực hành chung
Đúng 287 164
< 0,01
0,74
(0,60 – 0,91) Sai 222 263
GDSK giúp cải thiện KT và TH của PH
nhóm A, cụ thể là hiểu biết về triệu chứng bệnh
và biện pháp phòng ngừa, thực hành rửa hậu
môn cho trẻ mỗi sáng sớm và lau nhà trước khi
quét.
Bảng 3: So sánh kiến thức, thực hành trước và sau
GDSK trong nhóm B (NB = 640).
Đặc điểm
Sau GDSK P
McNemar
OR
(KTC 95%) Đúng Sai
T
rư
ớ
c
G
D
S
K
KIẾN THỨC (nhóm B)
Triệu chứng bệnh
Đúng 320 69
<0,01
0,56
(0,41 – 0,75) Sai 124 127
Yếu tố nguy cơ
Đúng 43 101
>0,07
Sai 77 419
Biện pháp phòng ngừa
Đúng 458 46
< 0,01
0,51
(0,35 – 0,74) Sai 90 46
Kiến thức chung
Đúng 325 79
< 0,01
0,58
(0,44 – 0,78) Sai 135 101
THỰC HÀNH (nhóm B)
Cắt móng tay cho trẻ
Đúng 396 61
< 0,01
0,56
(0,41 – 0,78) Sai 108 75
Rửa hậu môn cho trẻ
Đúng 340 57
<0,01
0,46
(0,33 – 0,63) Sai 125 118
Vệ sinh nhà cửa
Đúng 4 12 >0,8
Đặc điểm
Sau GDSK P
McNemar
OR
(KTC 95%) Đúng Sai
Sai 11 613
Thực hành chung
Đúng 253 63
< 0,01
0,43
(0,31 – 0,58) Sai 148 176
Sau GDSK, KT và TH sai nói chung của PH
nhóm B đều giảm; cụ thể là KT về triệu chứng
bệnh và biện pháp phòng ngừa, thực hành cắt
móng tay và rửa hậu môn cho trẻ mỗi sáng khi
trẻ thức dậy.
Bảng 4: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt về các thành tố KT, TH giữa hai nhóm sau
GDSK.
Biến số RR (KTC 95%) p χ2
Kiến thức
Triệu chứng bệnh 0,9 0,72 – 1,22 >0,65
Yếu tố nguy cơ 1,15 0,84 – 1,58 >0,38
Biện pháp phòng ngừa 0,97 0,69 – 1,36 >0,87
Thực hành
Cắt móng tay cho trẻ 0,90 0,68 – 1,20 >0,48
Rửa hậu môn cho trẻ 0,97 0,73 >0,84
Vệ sinh nhà cửa 1,50 0,70 – 3,11 >0,30
Các thành tố về KT, TH phòng ngừa nhiễm
giun kim của 2 nhóm PH đều như nhau sau
GDSK.
Bảng 5: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt KT chung giữa hai nhóm sau GDSK.
Biến số RR (KTC 95%) p χ
2
Biện pháp GDSK 1,06 0,81 – 1,39 >0,64
KT trước GDSK 2,49 1,99 – 3,10 <0,01
NCS trẻ 1,03 0,75 – 1,41 >0,87
Dân tộc PH 0,50 0,11 – 2,39 >0,38
Nghề PH 2,12 1,17 – 3,86 <0,02
Học vấn PH 1,32 0,97 – 1,80 >0,08
Tuổi PH 1,11 0,88 – 1,39 >0,37
Phân hiệu 1,55 1,18 – 2,05 <0,01
Lớp 1,03 0,80 – 1,32 >0,83
Nhóm PH có KT đúng trước GDSK, LĐ trí
óc, trẻ học ở phân hiệu chính sẽ có tỷ lệ KT
đúng sau GDSK cao hơn. Tuy nhiên chưa tìm
thấy mối liên hệ giữa biện pháp GDSK và KT về
bệnh giun kim.
Bảng 6: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt TH chung giữa hai nhóm sau GDSK.
Biến số RR (KTC 95%) p χ2
Biện pháp GDSK 0,93 0,72 – 1,20 >0,58
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 15
Biến số RR (KTC 95%) p χ2
TH trước GDSK 2,79 2,25 – 3,45 <0,01
KT sau GDSK 1,89 1,51 – 2,37 <0,01
NCS trẻ 1,43 1,07 – 1,93 <0,02
Dân tộc PH 3,22 0,93 – 11,2 >0,05
Nghề PH 1,31 0,81 – 2,12 >0,05
Học vấn PH 1,15 0,86 – 1,54 >0,05
Tuổi PH 0,96 0,77 – 1,20 >0,05
Phân hiệu 1,55 1,18 – 2,04 <0,01
Lớp 1,00 0,85 – 1,19 >0,05
Nhóm PH là mẹ, trẻ học ở phân hiệu chính,
có TH đúng trước GDSK sẽ TH đúng sau GDSK
cao hơn các nhóm còn lại, nhưng chưa tìm thấy
mối liên quan giữa biện pháp GDSK và TH
phòng bệnh giun kim.
BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tổng mẫu khảo sát bao gồm 1.576 PH, trong
đó 936 PH thuộc nhóm A và 640 PH thuộc
nhóm B. Với phương pháp chọn mẫu cụm, sự
khác biệt đã xuất hiện giữa hai nhóm về các
thuộc tính: phân hiệu, phân lớp, người trực tiếp
chăm sóc trẻ (NCS) cũng như dân tộc, nghề
nghiệp, trình độ học vấn và kiến thức về bệnh
giun kim của PH (p < 0,05, bảng 1). Sự không
tương đồng này có khả năng gây nhiễu khi so
sánh kết quả giữa hai nhóm, do đó, phương
pháp hồi quy đa biến được sử dụng để phân
tích sự khác biệt về KT, TH giữa 2 nhóm sau can
thiệp.
So sánh tỷ lệ KT, TH đúng của PH trước và
sau GDSK trong từng nhóm
Sau TTTT và phát tờ bướm, tỷ lệ KT, TH
sai của PH về nhiễm giun kim nói chung đều
giảm: lần lượt thấp hơn so với trước GDSK
0,57 và 0,74 lần ở nhóm A, 0,58 và 0,45 lần ở
nhóm B (p<0,01, bảng 2 và 3). Như vậy GDSK
đã có tác dụng cải thiện KT và TH của PH.
Khảo sát năm 2008 tại Củ Chi cũng chứng
minh được vai trò tích cực của GDSK với RR =
0,45 (0,36-0,56) và 0,66 (0,52-0,83)(14).
Xét chi tiết hơn, về KT, hiểu biết đúng các
yếu tố thuận lợi chưa được cải thiện ở cả 2
nhóm. Hầu hết PH vẫn cho rằng ăn uống kém
vệ sinh, đi chân đất đều liên quan đến nhiễm
giun kim (bảng 2 và 3). Nguyên nhân có thể do
việc truyền thông trên các phương tiện thông tin
đại chúng về phòng ngừa nhiễm giun sán trước
đây và hiện nay chủ yếu tập trung vào các loại
giun sán gây nhiễm qua thức ăn nước uống
hoặc tay chân dơ dính đất cát, khác với giun
kim; trong khi việc GDSK chuyên về giun kim
chỉ mới được thực hiện qua khảo sát này tại Củ
Chi nên chưa đủ lực tạo “dấu ấn bền bỉ” trong
nhận thức của phụ huynh sau khi ngưng GDSK.
Qua đó đã nhấn mạnh nguyên tắc “nhắc lại đều
đặn, thường xuyên” trong hoạt động truyền
thông giáo dục.
Ngoài ra, yếu tố nguy cơ thường đi đôi với
các biện pháp phòng ngừa, nhưng bảng 2 và 3
đã không thể hiện được tính song hành này:
nhận thức về các hành vi liên quan đến nhiễm
giun kim chưa được nâng cao trong khi PH lại
cải thiện tốt hiểu biết về cách phòng ngừa. Mâu
thuẫn này được lý giải như sau: vấn đề ăn uống
không hợp vệ sinh (ăn rau sống không rửa kỹ,
uống nước không nấu chín) được đánh giá
trong KT về điều kiện thuận lợi của bệnh nhưng
các câu hỏi về phòng ngừa lại chuyên biệt cho
nhiễm giun kim và chủ yếu nhấn mạnh đến việc
rửa hậu môn cho trẻ mỗi buổi sáng khi trẻ thức
dậy. Đây là điểm quyết định trong chu kỳ lây
nhiễm của E. vermicularis và KT này đã được
nâng cao sau GDSK, vì thế thực hành biện pháp
này cũng gia tăng 1,6 lần ở nhóm A và 2,2 lần ở
nhóm B, nói cách khác, số PH không rửa hậu
môn cho trẻ đều đặn vào sáng sớm, sau khi trẻ
thức dậy, chỉ còn 0,61 lần ở nhóm A và 0,46 lần
ở nhóm B so với trước GDSK.
So sánh tỷ lệ KT, TH đúng của PH sau can
thiệp giữa 2 nhóm
Sau khi xử lý hồi quy logistic, bảng 4, 5 và 6
đều không phát hiện sự khác biệt giữa 2 nhóm
trong từng KT, TH thành phần nói riêng cũng
như về KT, TH nói chung, nghĩa là không tồn tại
mối liên quan giữa KT, TH về phòng ngừa
nhiễm giun kim và các biện pháp GDSK (p
>0,05). Tuy nhiên, một số yếu tố thuộc tính lại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 16
ảnh hưởng đến việc tiếp thu KT và TH của PH
sau GDSK. Đối với nhận thức sau can thiệp,
bảng 5 và 6 đã ghi nhận tác động của KT đúng
trước GDSK, nghề nghiệp của PH, và phân hiệu
của trẻ với RR lần lượt là 2,49 (1,99-3,10); 2,12
(1,17-3,86) và 1,55 (1,18-2,05). Về TH sau khi tiến
hành truyền thông, vai trò của hành vi đúng
trước can thiệp, KT đúng sau can thiệp, người
trực tiếp chăm sóc trẻ và phân hiệu của trẻ cũng
được thể hiện (RR = 2,79 (2,25-3,45), 1,89 (1,51 –
2,37), 1,43 (1,07-1,93) và 1,55 (1,18-2,04)).
KT, TH đúng trước can thiệp là nền tảng cơ
bản nhưng có thể tồn tại những lỗ hổng. GDSK
sẽ lấp đầy các lỗ hổng đó, điều chỉnh các sai sót
và vun đắp thêm những gì đang sẵn có, giúp
hoàn thiện nhận thức và thực hành. Vì vậy, sau
truyền thông, KT, TH của PH đã tăng lên rõ rệt
(> 2 lần). Ngoài ra, sự cải thiện nhận thức sau
can thiệp cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy PH
thực hiện biện pháp phòng ngừa tốt hơn. Một
khảo sát năm 2008 trên 1677 trẻ mẫu giáo huyện
Củ Chi đã đưa ra nhận định tương tự: nếu có
kiến thức đúng, phụ huynh sẽ thực hành đúng
về phòng ngừa nhiễm giun kim cao hơn nhóm
không có kiến thức đúng 1,72 lần (1,27 – 2,33)(13).
Quy luật này đáp ứng được trình tự logic trong
chuyển biến tư duy, hành động của con người
và đã được chứng minh một cách thực tế, từ đó
chứng tỏ hiệu quả của GDSK trong việc lấp đầy
khoảng trống của xổ giun định kỳ nhằm kiểm
soát triệt để nhiễm giun kim.
Các yếu tố thuộc tính khác bao gồm nghề
nghiệp của PH, phân hiệu của trẻ đã ảnh hưởng
gián tiếp đến nhận thức thông qua trình độ học
vấn, và từ nhận thức đúng dẫn đến thực hành
đúng như đã trình bày trong các phần bàn luận
phía trên. Về yếu tố người trực tiếp chăm sóc
trẻ, đây là người sẽ phải chịu đựng những phiền
toái khi trẻ bị nhiễm giun kim: mất ngủ liên tục
vào ban đêm do trẻ quấy khóc khi ngứa hậu
môn, lo lắng khi trẻ biếng ăn, suy dinh
dưỡng, hơn nữa, mẹ thường quan tâm nhiều
đến trẻ hơn những người kh