Hiệu quả giảm nhạy cảm ngà của kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% trong tẩy trắng răng

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả giảm nhạy cảm ngà của kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% trong tẩy trắng răng tại nhà. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm được tiến hành trên 70 người (19-28 tuổi) tẩy trắng răng tại nhà bằng Carbamide Peroxide 20% trong 2 giờ mỗi ngày. Hai nhóm được phân ngẫu nhiên và hướng dẫn chải răng hai lần mỗi ngày và mang khay chứa kem đánh răng 10 phút sau khi mang khay tẩy trắng, mỗi nhóm sử dụng một loại kem đánh răng: (1) kem chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221%; (2) kem chỉ chứa Sodium Fluoride. Đánh giá mức độ nhạy cảm ngà bằng bảng câu hỏi và thang VAS hàng ngày từ ngày 1 đến ngày 21, và khám khi không có kích thích hoặc có kích thích bằng luồng hơi (60psi; 700F) hay kích thích lạnh (7 ± 20C) theo thang điểm 0-3 vào ngày đầu tiên và các ngày 3, 7, 14 và 21. Kết quả: Tự đánh giá tại nhà: kích thích lạnh chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại kích thích gây nhạy cảm (65,3-78,3%); không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và mức độ nhạy cảm giữa hai nhóm thử nghiệm. Đánh giá lâm sàng: tỷ lệ các răng không nhạy cảm ở cả hai nhóm đạt 97-100% trong điều kiện không có kích thích và 95-100% khi có kích thích bằng luồng hơi, ở các thời điểm đánh giá, không có khác biệt có ý nghĩa. Đối với kích thích lạnh, tỷ lệ mức độ răng nhạy cảm ở nhóm 1 thấp hơn so với nhóm 2, khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm (p<0,001; phép kiểm chính xác Fisher). Kết luận: (1) Kích thích lạnh gây nhạy cảm ngà nhiều nhất trên đối tượng tẩy trắng răng tại nhà; (2) Chải răng kết hợp với mang khay chứa kem đánh răng có Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% có hiệu quả giảm nhạy cảm ngà trên đối tượng tẩy trắng răng tại nhà.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giảm nhạy cảm ngà của kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% trong tẩy trắng răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 131 HIỆU QUẢ GIẢM NHẠY CẢM NGÀ CỦA KEM ĐÁNH RĂNG CHỨA POTASSIUM NITRATE 5% VÀ SODIUM FLUORIDE 0,221% TRONG TẨY TRẮNG RĂNG Đoàn Hồ Điệp*, Ngô Đồng Khanh*, Ngô Thị Quỳnh Lan*, Nguyễn Thị Thư*, Trần Ngọc Phương Thảo**, Hoàng Đạo Bảo Trâm* TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả giảm nhạy cảm ngà của kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% trong tẩy trắng răng tại nhà. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm được tiến hành trên 70 người (19-28 tuổi) tẩy trắng răng tại nhà bằng Carbamide Peroxide 20% trong 2 giờ mỗi ngày. Hai nhóm được phân ngẫu nhiên và hướng dẫn chải răng hai lần mỗi ngày và mang khay chứa kem đánh răng 10 phút sau khi mang khay tẩy trắng, mỗi nhóm sử dụng một loại kem đánh răng: (1) kem chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221%; (2) kem chỉ chứa Sodium Fluoride. Đánh giá mức độ nhạy cảm ngà bằng bảng câu hỏi và thang VAS hàng ngày từ ngày 1 đến ngày 21, và khám khi không có kích thích hoặc có kích thích bằng luồng hơi (60psi; 700F) hay kích thích lạnh (7 ± 20C) theo thang điểm 0-3 vào ngày đầu tiên và các ngày 3, 7, 14 và 21. Kết quả: Tự đánh giá tại nhà: kích thích lạnh chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại kích thích gây nhạy cảm (65,3-78,3%); không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và mức độ nhạy cảm giữa hai nhóm thử nghiệm. Đánh giá lâm sàng: tỷ lệ các răng không nhạy cảm ở cả hai nhóm đạt 97-100% trong điều kiện không có kích thích và 95-100% khi có kích thích bằng luồng hơi, ở các thời điểm đánh giá, không có khác biệt có ý nghĩa. Đối với kích thích lạnh, tỷ lệ mức độ răng nhạy cảm ở nhóm 1 thấp hơn so với nhóm 2, khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm (p<0,001; phép kiểm chính xác Fisher). Kết luận: (1) Kích thích lạnh gây nhạy cảm ngà nhiều nhất trên đối tượng tẩy trắng răng tại nhà; (2) Chải răng kết hợp với mang khay chứa kem đánh răng có Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% có hiệu quả giảm nhạy cảm ngà trên đối tượng tẩy trắng răng tại nhà. Từ khóa: nhạy cảm ngà, tẩy trắng răng, Potassium Nitrate, Sodium Fluoride ABSTRACT EFFICIENCY OF 5% POTASSIUM NITRATE AND 0.221% SODIUM FLUORIDE - CONTAINING TOOTHPASTE IN DENTIN HYPERSENSITIVITY DURING HOME WHITENING Doan Ho Diep, Ngo Dong Khanh, Ngo Thi Quynh Lan,Nguyen Thi Thu, Tran Ngoc Phuong Thao, Hoang Dao Bao Tram* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 131 - 137 Objective: The aim of this study was to evaluate the efficiency of 5% potassium nitrate and 0.221% sodium fluoride containing toothpaste in reducing dentin hypersensitivity (DH) during home whitening. Materials and method: The trial was conducted on 70 subjects (19-28 years-old) wearing individual tray containing 20% carbamide peroxide in 2 hours every day for 14 days. Subjects were randomly divided into two groups used 2 different toothpastes (5% potassium nitrate and 0.221% sodium fluoride - containing toothpaste, and sodium fluoride toothpaste) wore toothpaste-containing tray for 10 minutes after whitening. DH was evaluated every day by the subjects using a Questionnaire and VAS (day 1 to 21), and by 2 calibrated examiners * Đại học Y Dược TPHCM, ** Bệnh viện Răng Hàm Mặt TP.HCM Tác giả liên lạc: TS Hoàng Đạo Bảo Trâm, ĐT: 0904494849, Email: hoangdaobaotram@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 132 in non-stimulated condition and with air blast (60psi; 700F) or cold water (7 ± 20C) using 0-3 scale at base-line and day 3, 7, 14, 21. Results: Self-assessment: coldness was the most frequent stimulation for home whitening subjects (65.3-78.3%); there was no significant difference in the prevalence and severity of DH between 2 groups. Clinical assessment: the prevalence of non-sensitive teeth was from 97-100% in non-stimulated condition and from 95-100% with air blast stimulation in both groups at all office appointments; there was no significant difference. With cold stimulation, the prevalence and severity of DH was lower in group 1 compared to group 2 (p<0.001; Fisher exact test). Conclusion: (1) coldness was the most frequent stimulation for home whitening subjects; (2) brushing and utilization of tray containing 5% potassium nitrate and 0.221% sodium fluoride - containing toothpaste were effective in reducing DH in home whitening subjects. Key words: dentin hypersensitivity, home whitening, potassium nitrate, sodium fluoride ĐẶT VẤN ĐỀ Nhạy cảm ngà là một trong các vấn đề có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả của điều trị tẩy trắng răng. Tình trạng răng ê buốt tức thì sau lần tẩy trắng đầu tiên khi có kích thích nhiệt như ăn uống thực phẩm nóng, lạnh hoặc do cọ xát khi chải răng làm bệnh nhân cảm thấy khó chịu và giảm mong muốn tiếp tục điều trị(3). Tình trạng răng nhạy cảm do xoi mòn bề mặt men khi tẩy trắng răng có thể xảy ra trong lúc tẩy trắng và kéo dài cả sau đó. Kết quả các nghiên cứu trên đối tượng mang khay cá nhân chứa Carbamide Peroxide 10% tại nhà cho thấy tỉ lệ nhạy cảm ngà khá cao sau hai tuần tẩy trắng, ở mức 75% (Haywood, 1999)(7), 57% (Haywood, 2001)(5), 67% (Browning, 2007)(2). Sodium Fluoride và Potassium Nitrate có thể làm giảm tình trạng răng nhạy cảm. Trong đó, Fluoride làm giảm nhạy cảm ngà theo cơ chế thúc đẩy quá trình tái khoáng và Potassium Nitrate hoạt động theo cơ chế thâm nhập vào ống ngà, khử cực thần kinh, giảm đau khi có kích thích. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về phương pháp sử dụng Sodium Fluoride và Potassium Nitrate để giảm tình trạng nhạy cảm ngà, như bổ sung các thành phần này trong thuốc tẩy trắng, chải răng hoặc mang khay chứa kem đánh răng chứa các loại muối trên trong quá trình tẩy trắng(1,4,5,6,9,13). Tuy nhiên, theo Browning, vẫn còn 36% bệnh nhân nhạy cảm ngà khi dùng sản phẩm kết hợp Potassium Nitrate và Sodium Fluoride(1). Trong khi đó, Gerlach và cộng sự nhận thấy chỉ còn 13% đối tượng nhạy cảm khi sử dụng Hydrogen Peroxide 6% và chỉ còn 22% đối tượng khi dùng Carbamide Peroxide 5% xen kẽ ngậm kem đánh răng chứa hai loại muối trên trong suốt thời gian tẩy(4). Bên cạnh đó, Haywood đề nghị nên để răng tiếp xúc với Potassium Nitrate và Sodium Fluoride một thời gian trước khi tẩy, mức độ nhạy cảm ngà sẽ giảm đáng kể(6,8). Mặc dù các nghiên cứu đã cho những kết quả nhất định, việc lựa chọn phương pháp ngăn ngừa nhạy cảm ngà thích hợp cho các đối tượng tẩy trắng răng vẫn còn là một câu hỏi đối với các nhà lâm sàng. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả lâm sàng của kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% trong phòng ngừa và điều trị nhạy cảm ngà trong tẩy trắng răng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng, được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2012, tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã được chứng nhận chấp thuận của Hội đồng đạo đức (Chứng nhận số 9/HĐĐĐ, ngày 16/5/2012). Mẫu nghiên cứu gồm 70 người có nhu cầu tẩy trắng răng tại nhà, đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh thỏa mãn các tiêu chí chọn mẫu, áp dụng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 133 phương pháp lấy mẫu tiếp liền. Vật liệu và phương tiện nghiên cứu Kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221% (Sensodyne, Glaxo Smith Kline); Kem đánh răng chỉ chứa Sodium Fluoride (P/S); Carbamide Peroxide 20% (Ultradent). Hai loại kem đánh răng có cùng màu sắc và dạng sử dụng, được đựng trong các ống có cùng hình thức bao bì và không ghi nhãn. Bảng câu hỏi tự đánh giá theo thang VAS 0- 100 mm, bảng đánh giá theo thang 0-3, bảng màu Vita Classic, và các dụng cụ khám cơ bản. Phương pháp nghiên cứu Các đối tượng được đánh giá tình trạng răng miệng trước khi tiến hành nghiên cứu, gồm tiền sử răng miệng, tình trạng mô mềm, màu răng, tình trạng nướu, tình trạng nhạy cảm ngà (khi có kích bằng luồng hơi và nhiệt độ). Các đối tượng được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm theo phương pháp lấy mẫu tiếp liền: (1) sử dụng kem đánh răng chứa Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221%; (2) sử dụng kem đánh răng chỉ chứa Sodium Fluoride. Việc mã hóa vật liệu, mã hóa hồ sơ và, đưa vật liệu và hướng dẫn sử dụng được thực hiện bởi một người không tham gia khám đánh giá. Quy trình nghiên cứu được tiến hành trong 21 ngày ở mỗi đối tượng: Quy trình tẩy trắng răng (ngày 1 đến ngày 14): - Mang khay hàm trên chứa Carbamide Peroxide 20% trong 2 giờ vào buổi tối sau khi chải răng. - Mang khay hàm trên chứa kem đánh răng trong 10 phút(17) ngay sau khi mang khay chứa thuốc tẩy trắng. Trong quá trình nghiên cứu, các đối tượng được hướng dẫn chải răng hai lần mỗi ngày (buổi sáng sau khi ngủ dậy và buổi tối trước khi ngậm khay chứa vật liệu tẩy trắng), mỗi lần chải trong 3 phút với 50 mg kem (tương đương ½ chiều dài của phần chứa lông bàn chải của bàn chải đánh răng). Sau khi kết thúc quy trình tẩy trắng răng (ngày 15 đến ngày 21): - Tiếp tục chải răng hai lần mỗi ngày bằng kem đánh răng, buổi sáng sau khi ngủ dậy và buổi tối trước khi ngủ. Tiêu chí và phương pháp đánh giá nhạy cảm ngà Tự đánh giá tại nhà Từ ngày 1 đến ngày 21. Đối tượng nghiên cứu tự đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà trong 14 ngày thực hiện quy trình tẩy trắng (t1 đến t14) và 7 ngày sau khi kết thúc quy trình tẩy trắng răng (t15 đến t21), theo Bảng câu hỏi tự đánh giá gồm các đặc điểm về tình trạng nhạy cảm, mức độ nhạy cảm (VAS 0- 100mm) và loại kích thích gây khó chịu. Thang đánh giá VAS (Visual Analogue Scale): 0 (không nhạy cảm), 1-40 (nhạy cảm nhẹ), 41-70 (nhạy cảm nhiều), 17-100 (nhạy cảm rất nhiều). Khám đánh giá lâm sàng Vào các ngày 1, 3, 7, 14 và 21. Khám đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà khi không có kích thích và khi áp dụng hai loại kích thích khác nhau, thực hiện trên 6 răng cửa hàm trên. - Kích thích bằng luồng hơi (60psi; 700F) thổi vuông góc và cách bề mặt cổ răng 1cm, trong một giây, theo thang điểm từ 0 đến 3. - Kích thích bằng nhiệt độ lạnh (7 ± 20C) trên bề mặt cổ răng trong 5 giây, theo thang điểm 0-3. Thang điểm 0-3: 0 (không nhạy cảm), 1 (nhạy cảm nhẹ), 2 (nhạy cảm nhiều), 3 (nhạy cảm rất nhiều). Các răng được đánh giá xen kẽ và có khoảng nghỉ 5 giây, các răng bên cạnh được cách ly. Khoảng nghỉ giữa hai loại kích thích là 5 phút. Quy trình đánh giá được lặp lại 2 lần, mức độ nhạy cảm ghi nhận là mức nhạy cảm nhiều hơn. Việc đánh giá được thực hiện bởi hai người Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 134 khám đã được huấn luyện và định chuẩn, có độ thống nhất đạt 85% và độ kiên định đat trên 90%, đánh giá trên các đối tượng với hồ sơ ghi mã số và không biết đối tượng thuộc nhóm nào trong nghiên cứu. Các đối tượng cũng được đánh giá màu răng trong quá trình thực hiện nghiên cứu theo bảng màu Vita Classic để theo dõi hiệu quả của quy trình tẩy trắng. Kiểm soát sai lệch Kiểm soát sai lệch chọn lựa: dựa trên tiêu chuẩn chọn mẫu và loại mẫu. Kiểm soát sai lệch thông tin: mã hóa đối tượng nghiên cứu và định chuẩn người đánh giá. Phương pháp xử lý số liệu Sử dụng phần mềm thống kê STADA phiên bảng 10.0 để phân tích số liệu thống kê: thống kê mô tả (tần số, tỉ lệ phần trăm, trung bình, độ lệch chuẩn), thống kê phân tích (kiểm định Chi bình phương, kiểm định chính xác Fisher để so sánh tỉ lệ phần trăm của các biến số nghiên cứu, kiểm định t cho hai mẫu độc lập để so sánh các trị số trung bình của biến định lượng giữa hai nhóm theo các thời điểm). Các phép thống kê được áp dụng với độ tin cậy 95%. KẾT QUẢ Nghiên cứu được thực hiện trên 70 bệnh nhân (23 nam, 47 nữ), tuổi từ 19 đến 28 (trung bình 21,08), trong đó độ tuổi 19 chiếm tỉ lệ cao nhất (37,1%), là các đối tượng có nhu cầu tẩy trắng răng đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Các đối tượng được thực hiện quy trình tẩy trắng tại nhà bằng Carbamide Peroxide 20% kết hợp mang khay chứa kem đánh răng sau tẩy trắng trong 14 ngày và chải răng theo hướng dẫn trong suốt 21 ngày, nhóm 1 sử dụng kem đánh răng Potassium Nitrate 5% và Sodium Fluoride 0,221%, nhóm 2 sử dụng kem đánh răng chỉ chứa Sodium Fluoride. Mức độ nhạy cảm ngà được các đối tượng tự đánh giá mỗi ngày dựa trên Bản câu hỏi và được khám đánh giá vào các ngày 1, 3, 7, 14 và 21. Tình trạng nhạy cảm ngà do bệnh nhân tự đánh giá tại nhà Các đối tượng nghiên cứu thực hiện quy trình mang khay chứa thuốc tẩy trắng, khay chứa kem đánh răng, và chải răng với các vật liệu được cung cấp theo hướng dẫn. Mỗi đối tượng tự đánh giá hàng ngày mức độ nhạy cảm ngà răng theo Bảng câu hỏi tự đánh giá, áp dụng thang VAS. Về loại kích thích gây nhạy cảm ngà răng Đối tượng tự ghi nhận các loại kích thích gây nhạy cảm ngà răng trong sinh hoạt hàng ngày. Kết quả cho thấy kích thích lạnh là loại kích thích gây nhạy cảm ngà nhiều nhất ở cả hai nhóm, chiếm tỷ lệ 78,3% các loại kích thích gây nhạy cảm ở nhóm 1 (hình 1), và 65,3% ở nhóm 2 (hình 2). Hình 1. Tỷ lệ các loại kích thích gây nhạy cảm ngà trên đối tượng nghiên cứu ở nhóm 1. Hình 2. Tỷ lệ các loại kích thích gây nhạy cảm ngà trên đối tượng nghiên cứu ở nhóm 2. Tình trạng nhạy cảm ngà khi mang khay chứa thuốc tẩy trắng Bảng 1 trình bày tình trạng nhạy cảm ngà răng của các đối tượng nghiên cứu ở hai nhóm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 135 khi tự đánh giá tại nhà theo thang VAS vào thời điểm mang khay chứa thuốc tẩy trắng. Không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và mức độ nhạy cảm ngà giữa các thời điểm và giữa hai nhóm (p<0,001; kiểm định χ2). Bảng 1. Tỷ lệ người nhạy cảm ngà khi mang khay chứa thuốc tẩy trắng ở nhóm 1 và nhóm 2, tự đánh giá tại nhà theo thangVAS Số người nhạy cảm ngà ở các mức ñộ (n,%) 0 không nhạy cảm 1-40 nhạy cảm nhẹ 41-70 nhạy cảm nhiều 71-100 nhạy cảm rất nhiều Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 t0 35 100 35 100 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 t3 9 26 17 49 22 63 17 49 3 9 1 3 1 3 0 0 t7 13 37 16 46 19 54 16 46 3 9 3 9 0 0 0 0 t14 18 51 15 43 16 46 19 54 1 3 1 3 0 0 0 0 Tình trạng nhạy cảm ngà khi mang khay chứa thuốc tẩy trắng Bảng 2 trình bày tình trạng nhạy cảm ngà răng của các đối tượng nghiên cứu ở hai nhóm khi tự đánh giá tại nhà theo thang VAS vào thời điểm mang khay chứa kem đánh răng. Không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và mức độ nhạy cảm ngà giữa các thời điểm và giữa hai nhóm (p<0,001; kiểm định χ2). Bảng 2. Tỷ lệ người nhạy cảm ngà khi mang khay chứa kem đánh răng ở nhóm 1 và nhóm 2, tự đánh giá tại nhà theo thangVAS Số người nhạy cảm ngà ở các mức ñộ (n,%) 0 không nhạy cảm 1-40 nhạy cảm nhẹ 41-70 nhạy cảm nhiều 71-100 nhạy cảm rất nhiều Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 t0 35 100 35 100 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 t3 16 46 17 49 15 43 18 51 4 11 0 0 0 0 0 0 t7 14 40 21 60 21 60 14 40 0 0 0 0 0 0 0 0 t14 21 60 21 60 14 40 14 40 0 0 0 0 0 0 0 0 Khi phân tích mức độ nhạy cảm ngà do đối tượng nghiên cứu tự đánh giá tại nhà, không có khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm thử nghiệm trong cũng như sau quá trình tẩy trắng. Ở ngày thứ 21, tức là thời điểm 1 tuần sau khi kết thúc quy trình tẩy trắng, tỷ lệ người không nhạy cảm ngà là 86% ở nhóm 1 và 77% ở nhóm 2, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tình trạng nhạy cảm ngà khi đánh giá trên lâm sàng Đánh giá lâm sàng tình trạng nhạy cảm ngà răng của các đối tượng nghiên cứu theo thang điểm 0-3, tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu và ở ngày 3, 7, 14 và 21. Khi không có kích thích Khi đánh giá trên lâm sàng theo thang điểm 0-3, hầu hết đối tượng nghiên cứu không có răng có biểu hiện nhạy cảm khi không có kích thích. Tỷ lệ các răng không nhạy cảm ở cả hai nhóm đạt 97-100% ở tất cả các thời điểm đánh giá, không có khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Khi kích thích bằng luồng hơi Khi đánh giá trên lâm sàng theo thang điểm 0-3, tỷ lệ các răng không có biểu biện nhạy cảm ngà khi có kích thích bằng luồng hơi ở cả nhóm 1 và nhóm 2 đều rất cao, đạt 95-100% tại các thời điểm đánh giá, không có khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Khi kích thích lạnh Bảng 3 mô tả tình trạng nhạy cảm ngà trên các răng ở hai nhóm thử nghiệm khi có kích thích lạnh, đánh giá theo thang điểm 0-3. Ở nhóm 1, hoàn toàn không có răng biểu hiện nhạy cảm rất nhiều ở các thời điểm đánh giá. Tỷ lệ răng không nhạy cảm ở nhóm 1 cao hơn so với nhóm 2, trong khi đó nhóm 2 có tỷ lệ răng nhạy cảm nhiều và nhạy cảm rất nhiều cao hơn nhóm 1, khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm (p<0,001; phép kiểm chính xác Fisher). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 136 Bảng 3. Tỷ lệ răng nhạy cảm ngà với kích thích lạnh ở nhóm 1 và nhóm 2, đánh giá lâm sàng theo thang điểm 0-3 Số răng nhạy cảm ngà ở các mức ñộ (n,%) 0 không nhạy cảm 1 nhạy cảm nhẹ 2 nhạy cảm nhiều 3 nhạy cảm rất nhiều Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 Nh1 Nh2 t0 175 100 175 100 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 t3 92 53 54 31 77 44 98 56 6 3 21 12 0 0 2 1 t7 91 52 46 26 67 38 82 47 17 10 39 22 0 0 8 5 t14 98 56 49 28 66 38 77 44 11 6 40 23 0 0 9 5 t21 140 80 78 45 35 20 75 43 0 0 21 12 0 0 1 1 BÀN LUẬN Nhạy cảm ngà là một triệu chứng rất thường gặp, tuy nhiên khảo sát tình trạng nhạy cảm ngà lại không hoàn toàn đơn giản do việc đánh giá luôn phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của đối tượng, mức độ nhạy cảm ngà cũng rất thay đổi tùy thời điểm và loại kích thích(12). Đối với các nghiên cứu khảo sát về tình trạng nhạy cảm ngà, nên đánh giá tình trạng nhạy cảm do đối tượng tự ghi nhận và đánh giá bởi người khám, trong điều kiện không kích thích và có kích thích, với tối thiểu hai loại kích thích(10). Do đặc tính dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, việc khám đánh giá nhạy cảm ngà cần được thực hiện đúng cách để tránh các yếu tố có thể làm sai lệch sự đo lường như tác động của kích thích lên các răng lân cận răng được khám, hoặc ảnh hưởng của các lần khám tiếp liền nhau mà không có khoảng nghỉ đủ dài. Ngoài ra, việc đánh giá nhạy cảm ngà cũng nên được lặp lại để ghi nhận được mức độ nhạy cảm chính xác nhất(11). Trong nghiên cứu này, nhạy cảm ngà được ghi nhận theo cả hai phương pháp: tự đánh giá tại nhà và khám đánh giá bởi bác sỹ, trong cả điều kiện không kích thích và có kích thích. Hai loại kích thích được chọn áp dụng trong nghiên cứu là kích thích bằng luồng hơi và kích thích bằng nhiệt độ lạnh. Đây là hai loại kích thích thường gặp trong sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với việc đánh giá nhạy cảm ngà trên người tham gia tẩy trắng răng, là các đối tượng có tình trạng răng miệng lành mạnh, không bệnh lý. Theo Ricarte và cộng sự, thổi hơi là một phương pháp đánh giá nhạy cảm ngà đơn giản, dễ thực hiện, với áp suất được đề nghị là từ 45 psi đến 60 psi. Cũng theo các tác giả này, kích thích lạnh với mức nhiệt độ 70C là nhiệt độ lý tưởng nhất để phát hiện tình trạng nhạy cảm ngà và giảm tỉ lệ dương tính giả(14). Kết quả tự đánh gi
Tài liệu liên quan