Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi tường thuật lại việc ứng dụng thay huyết tương trong điều trị bệnh viêm
đa rễ dây thần kinh cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Hàng loạt ca.
Nơi thực hiện: Bệnh viện Nhân dân 115.
Bệnh nhân: 30 bệnh nhân bị viêm đa rễ dây thần kinh cấp từ giữa tháng 01 năm 2007 đến tháng 4 năm
2011 đã được thay huyết tương.
Kết quả: Tuổi trung vị của bệnh nhân là 43,5; phần lớn là đàn ông (70%). Có 02 bệnh nhân được truyền
tĩnh mạch immunoglobulin trước khi thay huyết tương. 28 bệnh nhân khác không được điều trị gì trước khi được
thay huyết tương. Tất cả các bệnh nhân được phân loại dựa vào thang điểm chức năng của Hughes trước khi thay
huyết tương và thời điểm xuất viện cho việc đánh giá kết quả lâm sàng sớm. Thay huyết tương được tiến hành
với một thể tích huyết tương được dự đoán cho 1-1,5 lần thể tích huyết tương cơ thể trong mỗi lần thay, 145 lần
thay huyết tương đã được thực hiện trên 30 bệnh nhân. Số lần thay huyết tương trung vị cho mỗi bệnh nhân là 5,
và số trung vị thể tích huyết tương đã được thay cho mỗi lần là 2450 ml (trong khoảng 2250-2500 ml). Mặc dù,
điểm Hughes trung vị của tất cả các bệnh nhân trước thay huyết tương là 5, nhưng nó đã giảm xuống điểm 3 sau
thay huyết tương. Hầu hết các biến chứng là nhẹ có thể kiểm soát dễ dàng như ban dị ứng, xuất huyết, thuyên tắc
mạch; tỉ lệ biến chứng trầm trọng gây tử vong là 6,6% gồm viêm phổi (3,3%) và loạn nhịp tim (3,3%).
Kết luận: Thay huyết tương đã cho thấy là một lựa chọn điều trị hiệu quả tương đối tốt với đáp ứng 83,3%
trên bệnh viêm đa rễ dây thần kinh cấp. Thủ thuật được đánh giá là an toàn tương đối với tỉ lệ biến chứng trầm
trọng gây tử vong là 6,6%.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả thay huyết tương trong điều trị bệnh viêm đa rễ dây thần kinh cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 84
HIỆU QUẢ THAY HUYẾT TƯƠNG
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM ĐA RỄ DÂY THẦN KINH CẤP
Nguyễn Hữu Công*, Bùi Huy Hảo**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi tường thuật lại việc ứng dụng thay huyết tương trong điều trị bệnh viêm
đa rễ dây thần kinh cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Hàng loạt ca.
Nơi thực hiện: Bệnh viện Nhân dân 115.
Bệnh nhân: 30 bệnh nhân bị viêm đa rễ dây thần kinh cấp từ giữa tháng 01 năm 2007 đến tháng 4 năm
2011 đã được thay huyết tương.
Kết quả: Tuổi trung vị của bệnh nhân là 43,5; phần lớn là đàn ông (70%). Có 02 bệnh nhân được truyền
tĩnh mạch immunoglobulin trước khi thay huyết tương. 28 bệnh nhân khác không được điều trị gì trước khi được
thay huyết tương. Tất cả các bệnh nhân được phân loại dựa vào thang điểm chức năng của Hughes trước khi thay
huyết tương và thời điểm xuất viện cho việc đánh giá kết quả lâm sàng sớm. Thay huyết tương được tiến hành
với một thể tích huyết tương được dự đoán cho 1-1,5 lần thể tích huyết tương cơ thể trong mỗi lần thay, 145 lần
thay huyết tương đã được thực hiện trên 30 bệnh nhân. Số lần thay huyết tương trung vị cho mỗi bệnh nhân là 5,
và số trung vị thể tích huyết tương đã được thay cho mỗi lần là 2450 ml (trong khoảng 2250-2500 ml). Mặc dù,
điểm Hughes trung vị của tất cả các bệnh nhân trước thay huyết tương là 5, nhưng nó đã giảm xuống điểm 3 sau
thay huyết tương. Hầu hết các biến chứng là nhẹ có thể kiểm soát dễ dàng như ban dị ứng, xuất huyết, thuyên tắc
mạch; tỉ lệ biến chứng trầm trọng gây tử vong là 6,6% gồm viêm phổi (3,3%) và loạn nhịp tim (3,3%).
Kết luận: Thay huyết tương đã cho thấy là một lựa chọn điều trị hiệu quả tương đối tốt với đáp ứng 83,3%
trên bệnh viêm đa rễ dây thần kinh cấp. Thủ thuật được đánh giá là an toàn tương đối với tỉ lệ biến chứng trầm
trọng gây tử vong là 6,6%.
Từ khóa: Thay huyết tương, hội chứng Guillain-Barré
ABSTRACT
EFFICACY OF PLASMA EXCHANGE IN GUILLAIN-BARRÉ SYNDROME
Nguyen Huu Cong, Bui Huy Hao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 84 - 90
Study objective: We report our experience with TPE performed for Guillain-Barré syndrome.
Design: Case series.
Setting: Hospital People 115, from January 2007 and April 2011.
Patients: 30 patients undergoing plasma exchange.
Results: Patient median age was 43.5; there was a predominance of males (70%).Two patients had a history
of intravenous immunoglobulin (IVIg). Another 28 patients had not received any treatment prior to TPE. All
patients were classified according to the Hughes functional grading scores, pre- and one month post-TPE for early
clinical evaluation of patients. The TPE was carried out 1-1.5 times at the predicted plasma volume every other
* BV. Ngoại Thần Kinh Quốc Tế ** BV. Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: BS. CKII Bùi Huy Hảo ĐT: 0918 061 021 Email: bui.hao58@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 85
day. One hundred and fourty-five procedures were performed on 30 patients. The median number of TPE sessions
per patient was five, and the median processed plasma volume was 2450 ml for each cycle. Although the pre-TPE
median Hughes score of all patients was 5, it had decreased to grade 3 after TPE and there were 83.3% patients
respond with TPE. Mild and manageable complication such as crash (13.3%), hemorrhage (6.6%), thrombosis
(3.3%) was also observed. There were 6.6% complications result in dead consist of severe pneumonia (3.3%) and
cardiac arrhythmias (3.3%).
Conclusions: TPE may be preferable for controlling symptoms of Guillain-Barré syndrome in early stage of
the disease.
Keywords: Plasma exchange, Guillain-Barré syndrome
MỞ ĐẦU
Thay huyết tương là một phương pháp trị
liệu đã được chứng minh là tốt thường được
sử dụng trong nhiều rối loạn do căn nguyên
miễn dịch. Thay huyết tương nhằm loại bỏ
những kháng thể và những chất dẫn đến
những rối loạn qua trung gian miễn dịch.
Thay huyết tương có thể giúp kiểm soát triệu
chứng của bệnh.
Viêm đa rễ dây thần kinh cấp là một bệnh do
căn nguyên miễn dịch. Liệu pháp thay huyết
tương trong điều trị bệnh này thường được tiến
hành đơn độc hoặc kết hợp với truyền tĩnh mạch
immunoglobulin như là liệu pháp hàng đầu(12).
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng có thể có biến
chứng khi thay huyết tương(7,8,11). Tuy nhiên, vì
các thử nghiệm lâm sàng còn giới hạn nên không
có đủ dữ liệu về hiệu quả sớm và hiệu quả lâu
dài và an toàn của thay huyết tương.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng thay huyết
tương trong điều trị các bệnh thần kinh do căn
nguyên miễn dịch hiện vẫn còn chưa thông
dụng. Nghiên cứu hồi cứu này được thực hiện
như là một phân tích những kinh nghiệm của
chúng tôi về thay huyết tương liên quan tới kết
quả điều trị sớm và biến chứng của liệu pháp
này trên những bệnh nhân trưởng thành bị bệnh
viêm đa rễ dây thần kinh cấp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một báo cáo hồi cứu mô tả hàng loạt
ca về các bệnh nhân bị bệnh viêm đa rễ dây thần
kinh cấp, dựa theo danh sách bệnh nhân trong
sổ nhật ký thay huyết tương của khoa Hồi sức
chống độc thuộc Bệnh viện Nhân dân 115, từ
tháng 01 năm 2007 đến 30 tháng 4 năm 2011.
Tổng hợp ghi chép của Khoa Thần kinh và
Khoa Hồi sức chống độc có liên quan tới những
dữ liệu dân số học của bệnh nhân như tuổi; giới;
bệnh sử, lâm sàng gồm hoàn cảnh khởi phát,
nhiễm trùng trước đó, diễn tiến và bệnh cảnh
nặng trước điều trị, điều trị (liệu pháp thay
huyết tương được như trị liệu hàng đầu và trị
liệu hàng hai), những tác dụng phụ của liệu
pháp, biến chứng bệnh và kết quả sớm.
Tất cả các bệnh nhân được phân loại dựa vào
thang điểm chức năng của Hughes ở thời điểm
trước khi thay huyết tương và trong vòng một
tháng. Trong bảng phân độ chức năng của
Hughes, độ 0: không có triệu chứng chủ quan và
khách quan, độ 1: triệu chứng chủ quan và
khách quan nhẹ và còn khả năng chạy, độ 2: có
khả năng đi bộ không cần trợ giúp tối thiểu 5 m
nhưng không có khả năng chạy, độ 3: có khả
năng đi với gậy, một công cụ, hoặc được trợ giúp
trong vòng 5 m, độ 4: nằm liệt giường (không có
khả năng đi bộ có trợ giúp trong vòng 5 m), độ 5:
phải được thông khí cơ học, độ 6: tử vong.
Thay huyết tương được tiến hành bằng thiết
bị lọc máu hiệu Prixma flex (Gambo, Sweden),
với một thể tích huyết tương được dự đoán bằng
1-1,5 lần thể tích huyết tương cơ thể cho mỗi lần
thay khác nhau. Albumin hoặc huyết tương tươi
đông lạnh được sử dụng để thay thế.
Bệnh nhân THT được đặt đường truyền ở
tĩnh mạch đùi, ống thông có 2 đầu, một đầu ra
màu đỏ và một đầu cho đường trở về màu xanh.
Những ống thông tĩnh mạch trung tâm được sử
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 86
dụng trên những bệnh nhân không lấy được
đường vào tĩnh mạch ngoại biên. Từ lúc bắt đầu
cho đến khi kết thúc thủ thuật, các bệnh nhân
được theo dõi dấu hiệu sinh tồn, các tác dụng
phụ của THT.
XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
Dữ liệu được trình bày dưới dạng số trung vị
hoặc số trung bình (tùy yêu cầu như phải so
sánh với các nghiên cứu liên quan) và khoảng.
Các dữ liệu thu thập sẽ được xử lý và phân tích
bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 11.5.
Dùng phép kiểm so sánh 2 trung bình mẫu cặp
(Paired-Sample T Test) để so sánh sự khác nhau
trong thang điểm Hughes ở bệnh nhân trước và
sau thay huyết tương, dùng phép kiểm so sánh 2
trung bình 2 mẫu độc lập (Independent-Sample
T Test) để so sánh điểm Hughes sau THT của
THT hàng đầu và điểm Hughes sau THT của
THT hàng hai, dùng phép kiểm Chi bình
phương (Chi-square Test) để tìm sự liên quan
giữa kết quả thay huyết tương và các yếu tố dân
số học, lâm sàng và cận lâm sàng. Khác biệt được
coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung: mẫu nghiên cứu có tổng
cộng 30 bệnh nhân, gồm 21 nam (70%). Số trung
vị của tuổi là 43,5 (trong khoảng: 17-83). Tuổi
trung vị ở nữ là 59 (trong khoảng: 17-72 tuổi).
Tuổi trung vị ở nam là 41 (trong khoảng: 20-83
tuổi). 19 bệnh nhân thuộc nhóm tuổi < 50 chiếm
tỉ lệ 63,3%, 11 bệnh nhân thuộc nhóm tuổi ≥ 50
chiếm tỉ lệ 36,7%.
Điều trị trước thay huyết tương: có 2 bệnh
nhân được sử dụng immunoglobulin
(0,4g/kg/ngày liên tục trong 5 ngày) không đáp
ứng, sau đó được thay huyết tương.
Điều trị thay huyết tương
Trong 30 bệnh nhân, có 28 bệnh nhân được
thay huyết tương như là liệu pháp hàng đầu, 02
bệnh nhân được thay huyết tương như là liệu
pháp hàng hai.
30 bệnh nhân được thay huyết tương tổng
cộng là 145 lần.
Số trung vị của những lần thay huyết tương
ở mỗi bệnh nhân là 5 (trong khoảng 3-6).
Số trung vị của thể tích huyết tương đã thay
cho mỗi lần làm là 2450ml (trong khoảng 2250-
2500 ml). Human albumin được sử dụng là dịch
thay thế trong 103 lần thay huyết tương (n = 26
bệnh nhân) và huyết tương tươi đông lạnh được
sử dụng trong 45 lần thay huyết tương (n = 21
bệnh nhân).
Kết quả
Trong 30 bệnh nhân, có 02 bệnh nhân được
thay huyết tương như là liệu pháp hàng hai sau
khi được truyền immunoglobuline, nhưng
không đáp ứng với điều trị này trước khi thay
huyết tương. 28 bệnh nhân khác được thay
huyết tương như trị liệu hàng đầu.
Trong số bệnh nhân viêm đa rễ dây thần
kinh cấp được thay huyết tương như liệu pháp
hàng hai, thời gian trung vị bắt đầu được thay
huyết tương là 29,5 ngày (trong khoảng 23-36
ngày). Trong số bệnh nhân được thay huyết
tương như là trị liệu hạng đầu, thời gian trung vị
bắt đầu được thay huyết tương là 5,5 ngày (trong
khoảng 2-27 ngày). Số lần trung vị thay huyết
tương là 5 (trong khoảng 3-8).
Đáp ứng với thay huyết tương được ghi
nhận là 25/30 (83,3%), không đáp ứng với thay
huyết tương là 05 bệnh nhân (16,7%). Điểm
Hughes trung vị trước khi thay huyết tương là 5
(trong khoảng 3-5) và sau thay huyết tương là 3
(trong khoảng 2-6) (p< 0,0005) (Bảng 1).
Bảng 1: Điểm Hughes trước và sau thay huyết tương
Đ0 Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 Đ5 Đ6 Điểm trung vị
Trước THT 0 0 0 2 (6,7%) 11 (36,7%) 17 (56,7%) 0 5
Sau THT 7 (23,3%) 15 (50%) 6 (20%) 2 (6,7%) 3
Có 02/2 (100%) bệnh nhân điểm 3 xuống điểm 2.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 87
Có 08/11 (72,8%) bệnh nhân điểm 4 xuống
điểm 2 (n = 03), điểm 3 (n = 05), có 03 (27,3 %)
bệnh nhân không đáp ứng với thay huyết tương.
Có 15/17 (88,2%) bệnh nhân điểm 5 xuống
điểm 2 (n= 2), điểm 3 (n=11), điểm 4 (n= 2) và 2
bệnh nhân tử vong (11,8%).
Bảng 2: Hiệu quả liệu pháp thay huyết tương đối với
bệnh viêm đa rễ dây thần kinh cấp dựa trên thang
điểm Hughes
Điểm Đáp ứng Không đáp ứng
3 100% (2/2):Đ3 → Đ2: 2
4 63,6% (08/11):
Đ4 → Đ3: 5, Đ2: 3
36,4% (03/11)
Đ4 –> Đ4
5 88,3% (15/17):
Đ5→ Đ4: 2(11,8%), Đ3: 11
(64,6%), Đ2: 2 (11,8%)
11,8% (02/17)
Cộng 25 bệnh nhân 5 bệnh nhân
Tác dụng phụ - Biến chứng
Phần lớn tác dụng phụ (93,4%) ở mức độ nhẹ
và bao gồm ban dị ứng, xuất huyết, thuyên tắc
mạch, viêm phổi. Có 2 trường hợp (6,6%) biến
chứng gây tử vong gồm 01viêm phổi nặng(3,3%)
và 01 loạn nhịp tim (3,3%).
Các trường hợp tác dụng phụ nhẹ kiểm soát
tốt gồm 04 bệnh nhân bị ban dị ứng, 01 bệnh
nhân bị thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối chỗ
đặt catheter và 02 bệnh nhân bị xuất huyết (1
tiểu máu và 1 chảy máu cam), 01 bệnh nhân lớn
tuổi bị viêm phổi bệnh viện và 01 bệnh nhân bị
loạn nhịp tim (lần đầu: khi đang thay huyết
tương lần 2 bệnh nhân bị ngừng tim sau loạn
nhịp xoang chậm; lần sau: khi đang được thay
huyết tương lần 3 bệnh nhân bị ngừng tim sau
rung thất; ca này mặc dù hồi sức thành công
nhưng sau đó viêm phổi nặng kèm suy thận cấp,
tử vong.
Bảng 3: Tác dụng phụ và biến chứng của thay huyết
tương
Tác dụng phụ và biến chứng Số bệnh nhân Tỉ lệ
Không có và có tác dụng phụ nhẹ 16 53,4%
Viêm phổi 12 40%
Viêm phổi nặng, tử vong 1 3,3%
Loạn nhịp tim, tử vong 1 3,3%
BÀN LUẬN
Nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên đã được thực
hiện để xác định hiệu quả và an toàn của THT
trên GBS(3). Phân tích tổng hợp của hệ thống cơ
sở dữ liệu Cochrane tường thuật rằng THT là
liệu pháp duy nhất điều trị GBS được thấy rằng
vượt trội so với điều trị nâng đỡ(9).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận
25/30 bệnh nhân bị GBS được THT cải thiện sau
5 lần thay. Điểm Hughes (trung bình) cho bệnh
nhân viêm đa rễ dây thần kinh cấp được cải
thiện từ 4,5 đến 3,13 sau THT (p < 0,0005). Sự cải
thiện dựa trên thang điểm Hughes trước và sau
THT khi được phân tích bằng phép kiểm so sánh
2 trung bình mẫu cặp (Pair Sample T-Test) đã
cho kết quả có ý nghĩa thống kê.
Thay huyết tương là trị liệu đầu tiên tỏ ra
có hiệu quả trên bệnh nhân GBS(10). THT
thường được thực hiện đơn độc như trị liệu
hàng đầu hoặc xen kẽ như trị liệu hàng hai
(kết hợp với IVIg)(12).
Vì sự tiện lợi trong thực hành mà IVIg hiện
nay được dùng như trị liệu hàng đầu và THT
được xem như trị liệu hàng hai ở bệnh nhân có
chống chỉ định tương đối với IVIg. Tuy rằng cả
hai liệu pháp đều lợi ích ngang nhau.
Liệu pháp kết hợp có vai trò gì không?(10)
Những kết quả của một thử nghiệm đa trung
tâm về THT sau IVIg chỉ ra rằng không có khác
biệt có ý nghĩa trong sự hồi phục giữa liệu pháp
kết hợp và liệu pháp đơn độc với THT hoặc IVIg.
Những kết quả thử nghiệm gợi ý rằng một bệnh
nhân không đáp ứng với một liệu pháp miễn
dịch này thì có thể không dẫn đến đáp ứng với
liệu pháp miễn dịch khác.
Những vấn đề chưa được giải quyết bao
gồm tiến hành trị liệu hàng hai (THT) khi bệnh
nhân vẫn còn nằm liệt giường sau 2 tuần IVIg
hay là bệnh nhân cần được dùng liều IVIg cao
hơn? Khoảng 10% bệnh nhân GBS có dự hậu dao
động bất thường hoặc tái phát cấp liên quan đến
trị liệu. Tái điều trị với miễn dịch liệu pháp được
chỉ định ở những bệnh nhân có hồi phục nhưng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 88
lại nặng lên.
Kaynar và cộng sự(4) trong một nghiên cứu
hồi cứu đa trung tâm về THT trong điều trị các
bệnh thần kinh từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 5
năm 2007; có 41 bệnh nhân GBS được THT trong
đó 33 (80,5%) bệnh nhân được thay huyết tương
như trị liệu hàng đầu và 8 (9,5%) bệnh nhân
được THT như trị liệu hàng hai (sau khi thất bại
với IVIg). Các tác giả ghi nhận có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê trong thang điểm Hughes giữa
nhóm bệnh nhân GBS được THT như trị liệu
hàng đầu và nhóm bệnh nhân GBS được THT
như trị liệu hàng hai (điểm Hughes trung vị 1 so
với 3,5 - p = 0,034).
Chúng tôi ghi nhận có 28 (93,3%) bệnh nhân
được THT như trị liệu hàng đầu và 02 (6,7%)
bệnh nhân được THT như trị liệu hàng hai.
Trong 02 bệnh nhân được IVIg, điểm Hughes
đều bằng 5. Bệnh nhân thứ nhất sau khi hoàn tất
IVIg 30 ngày, điểm Hughes vẫn không cải thiện,
đến lúc này bệnh nhân mới được THT; phải đến
42 ngày sau THT mới cai được máy thở, 82 ngày
sau THT mới được xuất viện với điểm Hughes
bằng 4, 15 tháng sau THT bệnh nhân tự đi lại
được với di chứng hai bàn chân rũ và yếu nhẹ
hai bàn tay. Bệnh nhân thứ hai sau khi hoàn tất
IVIg 8 ngày, điểm Hughes vẫn không cải thiện.
Chúng tôi đã quyết định THT sớm hơn ca thứ
nhất, kết quả thật ngoạn mục: 2 ngày sau hoàn
tất THT bệnh nhân cai được máy thở, sức cơ tứ
chi phục hồi từ 0/5 3/5 (điểm Hughes bằng 3),
bệnh nhân được xuất viện sau 8 ngày hoàn tất
THT trong tình trạng tự đi lại được. Kết quả đạt
được trên hai ca THT như trị liệu hàng hai là rất
tốt nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Mặc dù những ghi nhận từ nghiên cứu của
Kaynar và của chúng tôi về kết quả tốt của THT
sau khi IVIg không đáp ứng dựa trên số lượng
bệnh nhân còn khiêm tốn; có nên chăng trong
điều trị GBS, nếu thất bại với IVIg chúng ta tiến
hành THT như liệu pháp kết hợp.
Một phân tích tổng hợp của hệ thống cơ sở
dữ liệu Cochrane tường thuật rằng THT sẽ mang
lại hiệu quả hơn nếu được tiến hành trong 7
ngày đầu của bệnh; nếu được tiến hành khi yếu
liệt chưa trầm trọng, hoặc được khởi động sớm ở
những bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh sử diễn tiến
nhanh, hoặc tiêu chảy lúc khởi phát(14). Visser và
cộng sự(14) ghi nhận trong 73/147 bệnh nhân có
tổng điểm sức cơ MRC < 40 lúc khởi đầu điều trị,
có 13/73 bệnh nhân (17,8%) bị nằm liệt giường
trong 48 giờ sau khởi phát yếu cơ và thời gian
trung vị từ lúc khởi đầu yếu cơ cho đến khi bắt
đầu điều trị là 5,5 (từ 4,6 - 6,2) ngày trong nhóm
này. Phát hiện này chỉ rằng những bệnh nhân
này có thể được điều trị sớm hơn. Do đó, nhận
biết và điều trị sớm có thể quan trọng cho tiên
lượng lâu dài.
Bảng 4: Điểm Hughes sau thay huyết tương
Điểm Hughes Sau THT ĐO Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 Đ5 Đ6
Kaynar (41bn) 4 (10%) 19 (46%) 7 (17%) 5 (12%) 3 (7%) 3 (7%) 0
Chúng tôi (30 bn) 0 0 7 (23,5%) 15 (50%) 6 (20%) 0 2 (6,7%)
So sánh sự liên quan giữa hiệu quả THT với
ngày tiến hành THT và mức độ liệt cơ giữa
nghiên cứu của chúng tôi và của Kaynar là một
minh chứng cụ thể. Chúng tôi nhận thấy rằng
hiệu quả của THT trong điều trị GBS như trị liệu
hàng đầu trong nghiên cứu của Kaynar tốt hơn
của chúng tôi về cả số lượng (85% so với 83,3%)
lẫn chất lượng (điểm Hughes sau THT được
trình bày trong bảng 4.6 ở trên). Kết quả này đạt
được trong nghiên cứu của Kaynar và cộng sự,
có lẽ do chỉ định THT được thực hiện sớm hơn
(2,5 ngày so với 5,5 ngày) mức độ trầm trọng của
bệnh ở thời điểm bắt đầu THT trong được ghi
nhận là nhẹ hơn so với nghiên cứu của chúng
tôi. Mặc dù vậy, khi xem xét đáp ứng trong
nhóm bệnh nhân cần thở máy (Đ5) hiệu quả hồi
sức tích cực trong nghiên cứu của L. Kaynar kém
hơn trong nghiên cứu của chúng tôi.
THT được báo cáo là liệu pháp điều trị tương
đối an toàn với điều kiện là nó được thực hiện
bởi một đội ngủ kinh nghiệm và được sử dụng
cho những chỉ định thích hợp với tất cả những
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 89
sự thận trọng cần thiết (1,2,6,8).Những biến chứng
được tường thuật nhiều nhất là tụt huyết áp, hạ
calci, sự cố do ống thông, mày đay, chảy máu, rối
loạn nhịp(6,8). Biến chứng nặng là nhiễm trùng
huyết phải dùng thuốc vận mạch, sốc phản vệ,
tụt huyết áp trầm trọng, phù phổi cấp, nhồi máu
cơ tim, và tử vong được tường thuật chiếm
khoảng 1,6-22% bệnh nhân(5,6,8,15).
Bảng 5: Tỉ lệ biến chứng nhiễm trùng và loạn nhịp
tim
Nghiên cứu Nhiễm trùng trầm trọng Loạn nhịp tim
McKhann 1985 41/122(33,6%) 26/122 (21,3%)
Raphael 1987 50/109(45,8%) 27/109(24,8%)
Raphael 1997 2/45(4,4%) 5/45(11,1 %)
Kaynar 2008 0 0
Chúng tôi 13/30(43,3%) 1/30(3,3%)
Nghiên cứu của Kaynar và cộng sự ghi nhận
có 10,5% bị hạ huyết áp,8,7% bị hạ calci máu,
không có biến chứng máu tụ hoặc nhiễm trùng
nào; có lẽ do điều kiện vô trùng tốt tại các phòng
hồi sức tích cực của họ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, những
bệnh nhân không có tác dụng phụ hoặc biến
chứng chiếm 36,7%. Những tác dụng phụ nhẹ
được ghi nhận gồm ban dị ứng, huyết khối
chiếm 16,6% đều được giải quyết ổn thỏa.
Biến chứng nhiễm trùng trong nghiên cứu
này là viêm phổi 10/30 (33,3%), viêm phổi kèm
tác dụng phụ nhẹ (ban dị ứng hoặc chảy máu)
2/30 (6,6%), tổng cộng 40% ; tất cả đều được
kiểm soát tốt. Có 2/30 (6,6%) bệnh nhân có
biến chứng nặng gồm 01 (3,3%) trường hợp
viêm phổi bệnh viện trên bệnh nhân lớn tuổi
trước khi THT sau đó diễn biến tử vong và 01
(3,3%) trường hợp loạn nhịp tim (lần 1: loạn
nhịp chậm, ngừng tim; lần 2: rung thất) trong
khi đang THT sau đó có biến chứng viêm phổi
nhiễm trùng huyết dẫn đến tử vong. Hai
trường hợp tử vong (chiếm tỉ lệ 6,6%) tương
đồng với những ghi nhận của y văn(13).
KẾT LUẬN
1. Thay huyết tương đã được ứng dụng trên
30 bệnh nhân bệnh viêm đa rễ dây thần kinh cấp
tại Bệnh v