Mục tiêu: phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ và kỹ
thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật hở van hai lá bẩm sinh
theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TPHCM.
Phương pháp: nghiên cứu hồi cứu từ năm 1993 đến 2009, 77 bệnh nhân hở van hai lá bẩm sinh được phẫu
thuật theo phương pháp sửa van hai lá của Carpentier.
Kết quả Tuổi trung bình là 9,4 tuổi (6 tháng - 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 25 trường
hợp (32,5%). Nam giới: 40 (52%). Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh
trong 40% trường hợp. Tạo hình van chiếm 75 trường hợp (97,4%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo. Số
kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp
(83%) có đặt vòng van nhân tạo. Biến chứng gần sau mổ thấp (suy tim nặng 3, rối loạn nhịp tim 10, suy thận
cấp 1, nhiễm trùng huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,3% (1 trường hợp). So sánh trước và sau mổ
sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van hai lá: trước mổ (100% đều hở van nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ
86% (66), hở trung bình 14% (11) và hở nặng 0%, p< 0,001. Thời gian theo dõi trung bình 88,4 ± 62 tháng.
3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 6 tháng và dài nhất 16 năm) có 6 BN hở van
nặng tái phát, 4 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 5 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 1 đến 29
tháng sau mổ). Có 2 BN tử vong muộn. Tỷ lệ còn sống thực tế sau 16 năm theo dõi là 96,1 ± 2,7%. Tỷ lệ thực tế
BN không bị mổ lại sau 16 năm theo dõi là 88,5 ± 6,4%. Tần suất hở van hai lá tái phát là 1,56%/BN-năm.
Kết luận: Chẩn đoán xác định hở van hai lá bẩm sinh chủ yếu dựa vào kết quả phân tích trong mổ. Tạo hình
van là chọn lựa chủ yếu đối với hở van hai lá bẩm sinh ở trẻ em. Kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp
Carpentier về dài hạn rất tốt.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chẩn đoán đến điều trị phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 378
HỞ VAN HAI LÁ BẨM SINH ĐƠN THUẦN:
TỪ CHẨN ĐOÁN ĐẾN ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
Văn Hùng Dũng*, Phan Kim Phương*, Nguyễn Văn Phan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ và kỹ
thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật hở van hai lá bẩm sinh
theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TPHCM.
Phương pháp: nghiên cứu hồi cứu từ năm 1993 đến 2009, 77 bệnh nhân hở van hai lá bẩm sinh được phẫu
thuật theo phương pháp sửa van hai lá của Carpentier.
Kết quả Tuổi trung bình là 9,4 tuổi (6 tháng - 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 25 trường
hợp (32,5%). Nam giới: 40 (52%). Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh
trong 40% trường hợp. Tạo hình van chiếm 75 trường hợp (97,4%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo. Số
kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp
(83%) có đặt vòng van nhân tạo. Biến chứng gần sau mổ thấp (suy tim nặng 3, rối loạn nhịp tim 10, suy thận
cấp 1, nhiễm trùng huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,3% (1 trường hợp). So sánh trước và sau mổ
sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van hai lá: trước mổ (100% đều hở van nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ
86% (66), hở trung bình 14% (11) và hở nặng 0%, p< 0,001. Thời gian theo dõi trung bình 88,4 ± 62 tháng.
3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 6 tháng và dài nhất 16 năm) có 6 BN hở van
nặng tái phát, 4 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 5 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 1 đến 29
tháng sau mổ). Có 2 BN tử vong muộn. Tỷ lệ còn sống thực tế sau 16 năm theo dõi là 96,1 ± 2,7%. Tỷ lệ thực tế
BN không bị mổ lại sau 16 năm theo dõi là 88,5 ± 6,4%. Tần suất hở van hai lá tái phát là 1,56%/BN-năm.
Kết luận: Chẩn đoán xác định hở van hai lá bẩm sinh chủ yếu dựa vào kết quả phân tích trong mổ. Tạo hình
van là chọn lựa chủ yếu đối với hở van hai lá bẩm sinh ở trẻ em. Kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp
Carpentier về dài hạn rất tốt.
Từ khoá: Hở van hai lá bẩm sinh.
ABSTRACT
ISOLATED CONGENITAL MITRAL REGURGITATION:
DIAGNOSIS AND SURGICAL TREATMENT.
Van Hung Dung, Phan Kim Phuong, Nguyen Van Phan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 377 - 382
Objective: surgical treatment for congenital mitral regurgitation especially in young children often
encounter many difficulties because of small surgical field and limited techniques can be used. This study
determines the long-term result of the surgical treatment for isolated congenital mitral regurgitation with
Carpentier’s techniques.
Methods: A retrospective study from Feb 1993 to Dec 2009, 77 patients with isolated congenital mitral
regurgitation were operated at The Heart Institute of HCM City, Viet Nam.
* Viện Tim TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Văn Hùng Dũng ĐT: 0917882488 Email: vanhungdung2003@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 379
Results: Mean age was 9.4 ± 7.8 years (range from 0.7 to 45 years old), among them there were 25 patients
(32.5%) under 6 year of ages. Male patients was 40 (52%). Diagnosis the cause of mitral regurgitation pre-op by
echocardiography was exact only in 40% patients. Valve repair was performed sucessfully in 97.6% and only 2
cases had to change the native valve by prosthetic valve. The mean number of techniques per patients is 2.5 (min
1, max 5), Carpentier-Edwards prosthetic ring was used in 64 patients (83%). Immediate postoperative
complications were low (severe LCO 3.9%, arrhythmias 13%, severe infection 5.2% and acute re-nal failure
1.3%). 30-day mortality rate was only 1 patient (1.3%). The mean time of follow-up was 88.4 ± 62 months (6 -
192 months). During follow-up, 5 patients need to re-operation (1- 29 months). Evaluation MR by
echocardiography at the last follow-up showed 6 patients had severe MR, 5 others had moderate MR and the rest
had mild or no MR. Actuarial rate of freedom from re-operation at 16-year follow-up was 88.5 ± 6.4%. Late death
was two patients. Actuarial rate of survival at 16 year was 96.1 ± 2.7% and linearated of MR recurrent was
1.56%/pts-year.
Conclusion: Isolated congenital MR is always complex and difficult to diagnose before operation. Mitral
valve repair should be the primary choice to congenital MR. Mitral valve repair in children with Carpentier’s
techniques has very good long-term results with low mortality and re-operation rate.
Keyword: congenital MR
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hở van hai lá có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi
nào từ sơ sinh cho đến người lớn tuổi và có thể
do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hở van hai lá
có thể đơn thuần là một bệnh duy nhất hoặc kết
hợp với các thương tổn van tim khác hoặc dị tật
tim khác. Chẩn đoán có hở van hai lá nặng thì
không khó với phương tiện hiện nay nhưng
chẩn đoán đúng nguyên nhân gây hở van thì
không đơn giản. Siêu âm tim 2D và Doppler
màu là một công cụ rất mạnh để chẩn đoán hở
van hai lá.Trên siêu âm tim, tuỳ theo nguyên
nhân gây hở van sẽ có các hình ảnh chẩn đoán
khá đặc thù. Các dạng tổn thương của lá van,
vòng van và bộ máy dưới van phối hợp hoặc
không đi kèmvới các dị tật tim khác sẽ giúp
chẩn đoán nguyên nhân.Tóm tắt có thể chia làm
5 nhóm nguyên nhân gây hở van hai lá như sau:
Hở van hai lá do viêm nhiễm: hậu thấp,
viêm nội tâm mạc
Hở van hai lá do thoái hoá: bệnh thoái hoá
nhày, bệnh Barlow, hội chứng Marfan
Hở van hai lá bẩm sinh: đơn thuần hoặc
phối hợp với dị tật khác.
Hở van hai lá do thiếu máu cơ tim: sau nhồi
máu, ALCAPA
Hở van hai lá do nguyên nhân khác: chấn
thương.
Tại Việt Nam, hở van hai lá bẩm sinh thể
đơn thuần thường được nghĩ tới ở trẻ nhũ nhi
nhưng với trẻ lớn hơn hở van hai lá đơn thuần
thường do nguyên nhân hậu thấp. Trong nghiên
cứu này chúng tôi chỉ khảo sát những trường
hợp hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần ở mọi lứa
tuổi được mổ. Mục tiêu là lượng giá độ chính
xác bệnh hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần bằng
siêu âm tim và đánh giá kết quả phẫu thuật về
dài hạn nhóm bệnh hở van hai lá bẩm sinh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến hành theo kiểu hồi cứu, cắt
dọc. Thu thập các kết quả trước, trong và sau
mổ đồng thời phân tích các khối dữ liệu thu
được trong quá trình theo dõi bệnh nhân về dài
hạn.
Quần thể được chọn là tất cả các bệnh
nhân được phẫu thuật tại Viện Tim thành phố
Hồ chí Minh từ năm 1993 đến hết năm 2009
với chẩn đoán sau mổ là hở van hai lá bẩm
sinh đơn thuần. Loại trừ các bệnh nhân hở
van hai lá do nguyên nhân khác hoặc hở van
hai lá bẩm sinh phối hợp với các dị tật tim
khác như hẹp van 2 lá, thông liên thất, thông
liên nhĩ, còn ống động mạch
Các khối dữ liệu cần thu thập bao gồm: các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 380
đặc điểm bệnh lý trước mổ, chẩn đoán dạng tổn
thương và nguyên nhân hở van hai lá trong mổ,
thời gian theo dõi và kết quả siêu âm tim xa nhất
sau mổ cũng như các biến cố ghi nhận được
trong quá trình theo dõi.
Các biến định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.
Các biến định tính, các biến cố liên quan
được trình bày đưới dạng tần suất phần trăm và
hoặc tần suất đường thẳng (linearized rate).
Tỷ lệ bệnh nhân còn sống đến cuối quá trình
theo dõi cũng như tỷ lệ bệnh nhân không gặp
biến cố liên quan được trình bày theo biểu đồ
Kaplan-Meier.
Phân tích kết quả thống kê được thực hiện
bằng chương trình SPSS for Window phiên
bản 13.0.
KẾT QUẢ
Từ tháng 2 năm 1993 đến hết tháng 12 năm
2009, tại Viện Tim thành phố Hồ chí Minh
chúng tôi đã mổ cho 77 trường hợp hở van hai
lá bẩm sinh đơn thuần. Tuổi trung bình là 9,4
tuổi ± 7,8 năm (nhỏ nhất 6 tháng và lớn nhất 45
tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 25
trường hợp (32,5%). Trẻ em dưới 16 tuổi chiếm
đa số với 71 trường hợp. Nam giới: 40 (51,9%).
Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán
chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40%
trường hợp. Các trường hợp còn lại, nguyên
nhân hở van do bẩm sinh được chẩn đoán trong
mổ với các thương tổn đặc trưng như van hai lá
có dạng 2 lỗ, chẻ lá van trước hoặc lá van sau
(mitral valve cleft) Trong các trường hợp tồn
tại chẻ lá van, chỉ 2 BN có chẻ không hoàn toàn
còn lại 10 trường hợp có chẻ hoàn toàn và
không có dây chằng treo. Tất cả các trường hợp
được mổ với chẩn đoán hở van hai lá nặng
trước mổ. Trong mổ có 2 đường tiếp cận van hai
lá. Ở người lớn, vào van hai lá qua đường xẻ
chọn lọc trên nhĩ trái. Ở trẻ em, van hai lá được
bộc lộ qua đường xẻ vách liên nhĩ theo hình
vòng cung hướng về tĩnh mạch phổi phải.
Bảng 1: thương tổn van hai lá tìm thấy trong lúc mổ
Dạng thương tổn Số TH %
Dãn vòng van 74 96,1
Chẻ lá van trước 9 11,7
Chẻ lá van sau 3 3,9
Thiếu dây chằng lá van trước 48 62.3
Thiếu dây chằng lá van sau 2 2,6
Dài dây chằng (lá van trước) 8 10,4
Hội chứng dây chằng ngắn 5 6,5
Dính mép van 3 3,9
Van hai lá dạng 2 lỗ 2 2,6
Van dạng Hammock- Parachute 1 1,3
Hình 1: Chẻ lá trước van hai lá: trước và sau khi
phẫu thuật tạo hình van
Tạo hình van chiếm đại đa số với 75 trường
hợp (97,4%), hai trường hợp phải thay van nhân
tạo. Một trường hợp van có dạng Hammock -
Parachute phải thay van ngay từ đầu. Trường
hợp còn lại, tạo hình van cho kết quả không tốt
và BN được thay van ngay sau đó.
Chúng tôi áp dụng chủ yếu các kỹ thuật tạo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 381
hình van của Carpentier, các kỹ thuật này được
liệt kê trong bảng 2. Số kỹ thuật trung bình được
thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1,
nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp (83%) có
đặt vòng van nhân tạo Carpentier-Edward. Các
trường hợp còn lai được tạo hình vòng van sau
bằng một dải màng ngoài tim hoặc Teflon.
Bảng 2: Các kỹ thuật tạo hình van hai lá
Kỹ thuật mổ Số TH %
Tạo hình vòng van với vòng CE 60 81,0
Tạo hình vòng van sau bằng màng
ngoài tim hoặc PTFE 17 19,0
Đóng chẻ van hai lá 12 15,6
Cắt tam giác lá van trước 24 32,0
Cắt tứ giác lá van sau 26 34,6
Nới rộng lá van trước bằng màng
ngoài tim 5 6,5
Rút ngắn dây chằng 7 9,1
Chuyển vị dây chằng 23 29,9
Bờ hóa dây chằng 4 5,2
Khâu gấp mô van 4 5,2
Cắt mép van 3 3,9
Xẻ cửa sổ dây chằng 2 2,6
Tách trụ cơ 3 3,9
Biến chứng gần sau mổ thấp: suy tim nặng
3, rối loạn nhịp tim 10 (chủ yếu là nhịp chậm
xoang hoặc nhịp bộ nối: 8 trường hợp, 2 trường
hợp còn lại bị rung nhĩ tạm thời sau mổ), suy
thận cấp 1 trường hợp cần làm thẩm phân phúc
mạc, nhiễm trùng: 4 (nhiễm trùng huyết 1, viêm
phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,3% (1 trường
hợp do nhiễm trùng huyết dẫn đến suy đa cơ
quan).
So sánh trước và sau mổ sớm (đánh giá bằng
siêu âm tim qua thành ngực hoặc siêu âm tim
qua ngã thực quản), có sự giảm có ý nghĩa độ
hở van hai lá: trước mổ (100% đều hở van nặng)
và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ 86% (66), hở
trung bình 14% (11) và hở nặng 0%, p< 0,001.
Thời gian thở máy TB là 22 ± 47 giờ và thời
gian nằm hồi sức TB là 2,3 ± 2,9 ngày (1- 18
ngày).
Thời gian theo dõi trung bình là 88,4 ± 62
tháng. 3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm
theo dõi sau cùng (ngắn nhất 6 tháng và dài
nhất 17 năm) có 6 BN hở van nặng tái phát, 4 hở
van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 5
BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 1 đến 29
tháng sau mổ).
Tử vong muộn: 2 trường hợp (1 do nhũn
não tái phát vào tháng thứ 50 sau mổ và 1 không
rõ nguyên nhân). Tỷ lệ còn sống thực tế sau 16
năm theo dõi là 96,1 ± 2,7%. Tỷ lệ thực tế BN
không bị mổ lại sau 16 năm theo dõi là 88,5 ±
6,4%. Tần suất đường thẳng của hở van hai lá tái
phát là 1,56%/BN/năm với tổng thời gian theo
dõi là 3850 BN-năm.
Hình 2: Van hai lá dạng 2 lỗ
BÀN LUẬN
Chẩn đoán nguyên nhân hở nặng van hai lá
trước mổ: để chẩn đoán chính xác nguyên nhân.
hở van hai lá đơn thuần do nguyên nhân
bẩm sinh thường không dễ nếu chỉ có siêu âm
tim. Hở van hai lá đi kèm với các dị tật tim bẩm
sinh khác như còn ống động mạch, thông liên
thất, thông liên nhĩ đa phần có nguyên nhân
bẩm sinh tuy nhiên ở người lớn, trẻ lớn dạng hở
van kết hợp này vẫn có nguyên nhân hậu thấp
hoặc viêm nội tâm mạc. Chính vì vậy, chẩn
đoán chính xác là hở van hai lá bẩm sinh đơn
thuần đa phần chỉ thực hiện ngay trong mổ.
Kinh nghiệm của chúng tôi là dựa vào các dấu
hiệu đặc thù trên siêu âm tim thành ngực và
siêu âm tim qua ngã thực quản trong mổ đồng
thời dùng phương pháp loại trừ khi phân tích
các thương tổn trong mổ. Trong nghiên cứu
này, chỉ khoảng 40% số trường hợp của chúng
tôi được chẩn đoán đúng nguyên nhân gây hở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 382
van trước mổ. Các tác giả nước ngoài khác
không nêu rõ tỷ lệ chẩn đoán đúng nguyên
nhân hở van trước mổ nhưng đưa ra một số dấu
chứng siêu âm đặc thù giúp gợi ý chẩn đoán
như tồn tại chẻ lá trước, van hai lá có dạng 2 lỗ,
bất thường lá van sau(1,4,5,6,9).
Chọn sửa van hay thay van cho lần mổ đầu
tiên? Tạo hình van luôn luôn là chọn lựa ưu tiên
cho đại đa số trường hợp đặc biệt là ở trẻ em
nhỏ. Quan điểm này đã được thống nhất mặc
dù có rất nhiều kỹ thuật tạo hình van khác nhau
được sử dụng. Nhiều tác giả đã chấp nhận một
mức độ hở van tồn lưu trung bình trong lần mổ
đầu tiên và sau một thời gian theo dõi sẽ tiến
hành mổ lại cho bệnh nhi với mục tiêu là đợi
cho bệnh nhi đủ lớn để có thể đặt được vòng
van nhân tạo với kích cỡ lớn hoặc thay được
một van nhân tạo với kích cỡ phù hợp (từ 23 -
25mm trở lên)(2,9,12,15,18). Nghiên cứu mới đây của
DelNido, bệnh viện Nhi Boston, MA (2011) với
thời gian theo dõi lên đến 80 tháng sau mổ đã
cho thấy nhóm BN được tạo hình van có tỷ lệ
còn sống thực tế cao hơn có ý nghĩa so với
nhóm phải thay van nhân tạo(5).
Có nên đặt vòng van nhân tạo ở trẻ em hay
không? Có thể tạo hình vòng van đã bị dãn hay
đã biến dạng của bệnh nhi bằng nhiều kỹ thuật
khác nhau.Tùy vào lứa tuổi lúc được mổ hay độ
dãn của vòng van, độ lớn của thất trái và còn
tùy thuộc vào chọn lựa của bác sĩ phẫu thuật sẽ
có nhiều phương pháp để tạo hình vòng van
như chỉ tạo hình vùng hai mép van(14), tạo hình
thu nhỏ vùng vòng van sau bằng một dải
Teflon(14,17) hoặc dải màng ngoài tim tự thân, tạo
hình toàn bộ bằng vòng van nhân tạo(2,7,18) hoặc
bằng vòng van sinh học tự tiêu của
Kalangos(3) Mục tiêu lớn nhất của việc đặt
vòng van là giảm thiểu mức độ hở van tồn lưu
sau mổ cũng như kéo dài tính ổn định của phẫu
thuật tạo hình van. Nghiên cứu của Chauvaud
và Opido cho thấy tỷ lệ mổ lại ở BN có đặt vòng
van lần lượt là 11,4% và 0% trong khi tỷ lệ mổ
lại ở BN không đặt vòng van lần lượt là 40% và
27%. Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mổ lại trên
BN có và không đặt vòng van nhân tạo lần lượt
là 2,7% và 21% (p< 0,001). Các số liệu này chứng
minh vai trò quan trọng của vòng van nhân tạo
trong phẫu thuật tạo hình van hai lá. Tuy nhiên,
khi trẻ lớn lên vòng van nhân tạo không tiêu sẽ
là vật cản và là tác nhân gây hẹp van hai lá thứ
phát. Vấn đề này chỉ thực sự nghiêm trọng khi
phải đặt 1 vòng van nhân tạo khá nhỏ cỡ 16-18
cho bệnh nhi nhỏ cân. Với kích cỡ này khi phải
mổ lại để thay van nhân tạo thì khó mà có thể
đặt được cỡ van lớn. Carpentier cho rằng vòng
van nhân tạo thích hợp cho đại đa số bệnh nhi
nên lớn hơn cỡ 18 - 20 nhằm tránh biến chứng
hẹp van hai lá về sau và cần theo dõi siêu âm
định kỳ cũng như đặt vấn đề mổ lại sớm khi bắt
đầu có biểu hiện hẹp van hai lá mức độ trung
bình.
Chọn thời điểm mổ: hiện nay, đa số các tác
giả đều đồng ý nên trì hoãn thời điểm mổ, nói
khác đi là chỉ xét chỉ định phẫu thuật khi trẻ
càng lớn càng tốt. Lý do chính là trẻ càng lớn thì
khả năng can thiệp được trên van hai lá càng lớn
cũng như mức độ an toàn của phẫu thuật sẽ cao
hơn. Chỉ một số ít các trường hợp cần phẫu
thuật sớm khi trẻ có biểu hiện suy tim tiến triển
nặng không đáp ứng điều trị nội khoa.
KẾT LUẬN
Chẩn đoán hở van hai lá bẩm sinh trước mổ
thường không dễ dàng. Đối với người có nhiều
kinh nghiệm thường tìm các dấu hiệu đặc trưng
và phối hợp với phương pháp loại trừ.
Cho đến nay, phẫu thuật tạo hình bảo tồn
van là chọn lựa tối ưu cho đa số trường hợp đặc
biệt ở trẻ nhũ nhi. Trong các trường hợp phức
tạp, phẫu thuật tạo hình van có thể thực hiện
nhiều lần như là một giai đoạn chuyển tiếp
nhằm chờ đợi bệnh nhi đủ lớn để có thể đặt
vòng van cỡ thích hợp hoặc thay van nhân tạo.
Phẫu thuật tạo hình van hai lá theo phương
pháp Carpentier cho kết quả rất tốt về dài hạn
với tỷ lệ tử vong muộn và tỷ lệ mổ lại thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abadir S, Fouilloux V, Metras D, Ghez O, Kreitmann B and Fraisse
A. “Isolated Cleft of the Mitral Valve: Distinctive Features and
Surgical Management”. Ann Thorac Surg 2009;88:839-843.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 383
2. Chauvaud S, Fuzellier JF, Houel R, Berrebi A, Mihaileanu S.”
Reconstructive surgery in congenital mitral valve insufficiency
(Carpentier’s techniques): Long-term results “. J Thorac Cardiovasc
Surg 1998;115:84-93.
3. Cikirikcioglu M, Pektok E, O Myers P, Christenson JT, Kalangos
A.” Pediatric mitral valve repair with the novel annuloplasty ring:
KALANGOS-BIORING® “. Asian Cardiovasc Thorac Ann
2008;16:515-516.
4. Creech O, JR., Ledbetter MK and Reemtsma K. “Congenital Mitral
Insufficiency with Cleft Posterior Leaflet”. Circulation 1962;25;390-
394.
5. Del Nido. “Pediatric Mitral valve disease.Mitral Conclave 2011.
(
al2011.html)
6. Federici D, Palmerini E, Lisi M, Centola L, Chiavarelli M and
Mondillo S. “Congenital Mitral Disease: Anomalous Mitral Arcade
in a Young Man”. Ann Thorac Surg 2010;89:629-631.
7. Fuzellier JF, Chauvaud SM, Fornes P, Berrebi AJ, Lajos PS,
Bruneval P and Carpentier AF. “Surgical management of mitral
regurgitation associated with Marfan’s syndrome”. Ann Thorac
Surg 1998;66:68-72.
8. Kanter KR, Forbess JM and Kirshbom PM. “Redo Mitral Valve
Replacement in Children”. Ann Thorac Surg 2005;80:642-646.
9. Lee C, Lee CH, Kwak JG, Park CS, Kim SJ, Song JY and Shim WS.
“Long-term results after mitral valve repair in children “. Eur J
Cardiothorac Surg 2010;37:267-272.
10. Lorussoa R, Borghettia V, Totaroa P, Parrinellob G, Colettia G,
Minzioni G. “The double-orifice technique for mitral valve
reconstruction:predictors of postoperative outcome”. Eur J Cardio-
thorac Surg 2001 ;20: 583-589.
11. Maisano F, Redaelli A, Pennati G, Fumero R, Torracca L and Alfieri
O. “The hemodynamic effects of double-orifice valve repair for
mitral regurgitation: a 3D computational model”. Eur J
Cardiothorac Surg 1999;15:419-425.
12. McCarthy JF, Neligan MC, Wood AE. “Ten year ‘ experience of an
aggressive reparative approach to congenital mitral valve
anormalies “. Eur J Cardiothorac Surg 1996;10:534-539.
13. Minami K, Kado H, Sai S, Tatewaki H, Shiokawa Y, Nakashima A,
Fukae K, Hirose H. “Midterm results of mitral valve repair with
artificial chordae in children “. J Thorac Cardiovasc Surg
2005;129:336-42.
14. Ohno H, Imai Y, Terada M, and Hiramatsu T. “The Long-Term
Results of Commissure Plication Annuloplasty for Congenital
Mitral Insufficiency”. Ann Thorac Surg 1999;68:537– 41.
15.