Kết quả bước đầu của phương pháp hủy u gan bằng sóng cao tần ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan

Cơ sở và mục tiêu nghiên cứu: Ung thư biểu mô tế bào gan là một trong các bệnh lý ác tính thường gặp và có nhiều phương pháp điều trị. Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả điều trị, độ an toàn và các yếu tố liên quan đến hiệu quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan của phương pháp hủy u gan bằng sóng cao tần (RFA). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca tiền cứu khảo sát 121 u trên 96 bệnh nhân có chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp RFA tại khoa U Gan Bệnh viện Chợ Rẫy. Hiệu quả điều trị bước đầu được đánh giá bằng tỉ lệ hủy u hoàn toàn trên phim CT scan bụng sau 1 tháng điều trị. Chúng tôi cũng ghi nhận tỉ lệ biến chứng và xác định các yếu tố liên quan đến hiệu quả điều trị dựa trên phân tích đơn biến và đa biến. Kết quả: Có 121 u trên 96 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp RFA qua da. Kích thước u trung bình là 26,3± 8,7mm. Tỉ lệ hủy u hoàn toàn sau 1 tháng điều trị chiếm 87%. Tỉ lệ biến chứng nặng chiếm tỉ lệ 1% và biến chứng nhẹ chiếm 2,1%. Không có trường hợp nào tử vong. Phân tích đa biến cho thấy các yếu tố liên quan đến tỉ lệ hủy u không hoàn toàn gồm đường kính u ≥ 30mm (p = 0,017), u gần vòm hoành (p = 0,008) và giới nam (p = 0,025). Kết luận: RFA là phương pháp điều trị khá an toàn và hiệu quả đối với những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan.

pdf8 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu của phương pháp hủy u gan bằng sóng cao tần ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 15 KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHƯƠNG PHÁP HỦY U GAN   BẰNG SÓNG CAO TẦN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN  Nguyễn Huyền Châu*, Lê Thành Lý*  TÓM TẮT  Cơ sở và mục tiêu nghiên cứu: Ung thư biểu mô tế bào gan là một trong các bệnh lý ác tính thường gặp  và có nhiều phương pháp điều trị. Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả điều trị, độ an toàn và các yếu tố  liên quan đến hiệu quả điều  trị ung  thư biểu mô  tế bào gan của phương pháp hủy u gan bằng sóng cao  tần  (RFA).  Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca tiền cứu khảo sát 121 u trên 96 bệnh nhân  có chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp RFA tại khoa U Gan Bệnh viện Chợ  Rẫy. Hiệu quả điều trị bước đầu được đánh giá bằng tỉ lệ hủy u hoàn toàn trên phim CT scan bụng sau 1 tháng  điều trị. Chúng tôi cũng ghi nhận tỉ lệ biến chứng và xác định các yếu tố liên quan đến hiệu quả điều trị dựa trên  phân tích đơn biến và đa biến.   Kết quả: Có 121 u trên 96 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp RFA qua da. Kích thước u trung  bình là 26,3± 8,7mm. Tỉ lệ hủy u hoàn toàn sau 1 tháng điều trị chiếm 87%. Tỉ lệ biến chứng nặng chiếm tỉ lệ  1% và biến chứng nhẹ chiếm 2,1%. Không có trường hợp nào tử vong. Phân tích đa biến cho thấy các yếu tố liên  quan đến tỉ lệ hủy u không hoàn toàn gồm đường kính u ≥ 30mm (p = 0,017), u gần vòm hoành (p = 0,008) và  giới nam (p = 0,025).  Kết luận: RFA là phương pháp điều trị khá an toàn và hiệu quả đối với những bệnh nhân ung thư biểu mô  tế bào gan.  Từ khóa: hủy u gan bằng sóng cao tần, ung thư biểu mô tế bào gan.  ABSTRACT  INITIAL EVALUATION OF HEPATOCELLULAR CARCINOMA TREATMENT USING  RADIOFREQUENCY ABLATION  Nguyen Huyen Chau, Le Thanh Ly  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 15 ‐ 22  Background and aims: Hepatocellular carcinoma (HCC)  is one of the most common malignant diseases  with  many  treatment  options  available.  Our  aims  are  to  evaluate  the  efficacy,  safety  and  identify  factors  associated with the efficacy of radiofrequency ablation (RFA) in HCC.  Patients and methods: A large case series of 121 tumors in 96 patients who were diagnosed as HCC and  treated by RFA at the Liver tumor Department, Cho Ray hospital was prospectively assessed. The initial efficacy  of the treatment was evaluated by the complete tumor ablation shown by abdominal contrast‐enhanced, dynamic  computed tomography (CT) performed 1 month after treatment. We also examined the rate of complication after  the treatment, and analyzed factors that may play roles in the efficacy of the treatment using both univariate and  multivariate analysis.  Results: There were 121 tumors in 96 patients treated with percutaneous RFA. The average tumor diameter  was 26.3± 8.7mm. The overall rate of complete tumor ablation was 87% with only 1% and 2.1% of the patients  exhibiting  major  and  minor  complication  respectively.  None  of  the  cases  was  lethal. Multivariate  analysis  * Khoa Nội Tiêu Hóa, Bệnh viện Chợ Rẫy, Tp Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: TS. Lê Thành Lý  ĐT: 0913857594   Email: lybvcr@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 16 revealed  that  the  factors  that play  significant  roles  in  the  success  rate of  complete  tumor ablation using RFA  included the tumor diameter (p = 0,017), the tumor location close to the diaphragm (p = 0,008) and gender (p  =0,025). In particular, the efficacy of RFA dropped significantly in HCC patients with tumors being more than  30mm in diameter, in patients with tumors closer to the diaphragm and in male patients.  Conclusion: RFA is a relatively safe and effective treatment for HCC patients.  Key words: Radio Frequency Ablation (RFA), HCC (hepatocellular carcinoma)  ĐẶT VẤN ĐỀ  Ung thư gan nguyên phát, trong đó kiểu mô  học  chủ  yếu  là  ung  thư  biểu mô  tế  bào  gan  (UTBMTBG),  là bệnh  lý ác  tính đứng hàng  thứ  sáu trong các loại ung thư trên toàn thế giới và là  nguyên  nhân  tử  vong  xếp  thứ  ba  trong  các  nguyên  nhân  tử  vong  do  ung  thư(9).  Tỉ  lệ  UTMBTBG  cao  ở  Châu  Á,  Châu  Phi,  nhất  là  những vùng có xuất độ nhiễm vi rút viêm gan B  và vi rút viêm gan C cao. Việt Nam hiện vẫn là  nước  có  tỉ  lệ UTBMTBG  rất  cao.  Theo  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Chấn  Hùng  và  cộng  sự  tại  thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1997, ung thư  biểu mô tế bào gan đứng hàng thứ nhất ở nam  và đứng hàng thứ 6 ở nữ trong 10 loại ung thư  thường  gặp nhất(11). Do  đó, UTBMTBG hiện  là  vấn đề đáng quan tâm trên thế giới nói chung và  tại Việt Nam nói  riêng  đồng  thời  việc  điều  trị  UTBMTBG  hiện  đang  đặt  ra  nhiều  thách  thức  cho ngành y tế.  Hiện  tại,  có  nhiều  phương  pháp  điều  trị  UTBMTBG  như  phẫu  thuật,  ghép  gan,  các  phương pháp điều trị tại chỗ như tiêm chất hóa  học  (axít acetic, ethanol) hoặc hủy khối u bằng  nhiệt (dùng sóng cao tần, vi sóng, tia  laser,  liệu  pháp  đông  lạnh)(3).  Cho  đến  hiện  nay,  hủy  u  bằng  sóng  cao  tần  (RFA)  là  lựa  chọn  đầu  tiên  trong  các  phương  pháp  điều  trị  tại  chỗ  xuyên  gan qua da dưới hướng dẫn của siêu âm hay CT  scan  (3). Tại  thành phố Hồ Chí Minh nói chung  và tại bệnh viện Chợ Rẫy nói riêng, việc điều trị  ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp  RFA chỉ mới được áp dụng  trong vài năm gần  đây và đã có kết quả khả quan. Tuy nhiên, khi  áp dụng phương pháp RFA  điều  trị  cho  bệnh  nhân ung  thư biểu mô  tế bào gan,  tỉ  lệ hủy u  hoàn toàn cũng như tỉ lệ xảy ra biến chứng khi  điều trị, những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả  điều trị vẫn chưa được thống kê rõ tại thành phố  Hồ Chí Minh nói  chung và  tại bệnh viện Chợ  Rẫy nói  riêng. Việc  đánh giá hiệu quả  điều  trị  của phương pháp này là thật sự cần thiết nhằm  giúp cho người thầy thuốc có những quyết định  xử  trí  thích  hợp.  Do  đó  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên cứu này nhằm đánh giá bước đầu hiệu  quả điều trị của phương pháp RFA.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Tất  cả  các bệnh nhân mới  được  chẩn  đoán  UTBMTBG và có chỉ định  làm RFA  tại khoa U  gan  Bệnh  Viện  Chợ  Rẫy  từ  tháng  1/2011  đến  tháng 6/2011.  Tiêu chuẩn chọn bệnh  Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  xác  định  ung  thư  biểu mô  tế  bào  gan  (  giải  phẫu  bệnh/  có  nhiễm HBV hoặc HCV với AFP > 20 ng/ml kết  hợp hình ảnh đặc  thù của siêu âm  / CT có cản  quang).  Bệnh nhân có u đơn độc với đường kính <  30mm hay ≤ 3 u khối u riêng biệt với khối u có  đường kính lớn nhất ≤ 30mm.  Không có dấu chứng u xâm  lấn mạch máu  hay di căn ngoài gan.  Tình  trạng  hoạt  động  thể  lực  giai  đoạn  0  (không giới hạn hoạt động thể lực).  Bệnh nhân ≥ 18 tuổi.  Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.  Tiêu chuẩn loại trừ  Bệnh  nhân  có  rối  loạn  đông  máu  nặng  không  thể  điều  chỉnh  được  (Tỉ  lệ prothrombin  lớn  hơn  50%  so  với  chứng  và  tiểu  cầu  <50000/μL).  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 17 Bệnh nhân  có bệnh mãn  tính nặng khác  đi  kèm.  Bệnh nhân đã được điều trị u trước đó.  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca tiền cứu.  Phương pháp thu thập số liệu  Phương tiện nghiên cứu  Máy  Valley‐lab  Cool‐tipTM  RF  Ablation  System do hãng Covidien của Mỹ sản xuất.  Điện cực dạng kim đơn 17G được  làm mát  có đầu tiếp xúc 2cm hay 3cm.  Máy bơm nước để bơm nước  lạnh  làm mát  đầu điện cực.  Bộ dây nối  đầu  điện  cực và bình nước  cất  được làm lạnh.  Hai miếng tiếp đất.  Dây dẫn nối miếng tiếp đất vào máy RFA.  Thuốc gây tê tại chỗ: lidocain.  Thuốc tiền mê: fentanyl.  Một máy siêu âm để theo dõi quá trình đốt.  Phương pháp tiến hành nghiên cứu  Bệnh nhân ung  thư biểu mô  tế bào gan  có  chỉ  định  làm RFA nhập vào khoa U gan bệnh  viện  Chợ  Rẫy  thỏa  tiêu  chuẩn  chọn  mẫu  và  đồng ý tham gia nghiên cứu được thu nhận vào  mẫu  nghiên  cứu.  Tiến  trình  đốt  u  gan  bằng  phương pháp RFA được thực hiện như sau:  Bệnh nhân được tiền mê với fentanyl và gây  tê tại chỗ với lidocain.  Thiết lập hệ thống Cool‐tip RFA.  Bệnh nhân nằm ngửa hay nằm nghiêng trái  sao cho việc tiếp cận khối u thuận lợi và an toàn  nhất( không xuyên qua mạch máu  lớn,  đường  mật  lớn, phổi,  ống  tiêu hóa).  Điện  cực dạng  kim được đưa vào khối u dưới hướng dẫn của  siêu âm và tiến hành đốt từng phần khối u cho  đến khi phá hủy hoàn khối u. Thời gian chuẩn  cho mỗi lần đốt đối với điện cực có đầu tiếp xúc  2cm là 6 phút và điện cực có đầu tiếp xúc 3cm là  12 phút. Kim đốt được  làm mát bằng hệ  thống  bơm tự động nước cất lạnh gần 00 C để duy trì  nhiệt độ tại đầu điện cực dưới 150 C.Vùng phá  hủy phải vượt mép u ít nhất 5mm.   Bệnh nhân  được  theo dõi  tác dụng phụ và  biến  chứng  trong  lúc  làm  thủ  thuật  và  trong  vòng 24 giờ sau thủ thuật.   Bệnh nhân được đánh giá hiệu quả thủ thuật  trong vòng 3 ngày sau thủ thuật bằng cách chụp  CTscan bụng kiểm tra, nếu khối u đốt chưa đạt  thì bệnh nhân sẽ được đốt RFA  tiếp  theo ngay  trong lần nhập viện đầu.   Bệnh nhân  được hẹn  tái khám  sau 1  tháng  để chụp CTscan bụng kiểm tra hiệu quả điều trị  RFA.  Phương pháp phân tích số liệu  Số  liệu được nhập bằng phần mềm Epidata  và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0.  Các biến số định lượng có phân phối chuẩn  được trình bày dưới dạng  trung bình ± độ  lệch  chuẩn và được so sánh bằng phép kiểm T. Các  biến  số định  lượng có phân phối không  chuẩn  được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị  Q1‐Q3) và được so sánh bằng phép kiểm Mann‐ Whitney‐U. Các  biến  số  định  tính  được mô  tả  dưới  dạng  phần  trăm  và  so  sánh  bằng  phép  kiểm chi bình phương hay Fisher.   Phân tích các yếu tố liên quan đến hiệu quả  điều trị bằng hồi qui logistic đơn và đa biến.  Các  mối  liên  hệ  được  xem  là  có  ý  nghĩa  thống kê khi giá trị p ≤0,05.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Từ  tháng 1/2011 đến  tháng 6/2011,  tại khoa  U gan bệnh viện Chợ Rẫy  chúng  tôi ghi nhận  được  96  trường  hợp  với  121  khối  u  gan  được  điều trị bằng phương pháp RFA thỏa tiêu chuẩn  chọn  vào mẫu  nghiên  cứu  và  tiến  hành  phân  tích với kết quả như sau:   Đặc điểm bệnh nhân  Tuổi  trung bình  của bệnh nhân  trong mẫu  nghiên  cứu  là 61,4± 11,6  tuổi. Tỉ  lệ nam/ nữ  là  1,9/1. Thời gian nằm viện  trung bình  là 3  (2‐4)  ngày. Tình trạng nhiễm HBV và HCV và các đặc  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 18 điểm  cận  lâm  sàng  của  bệnh  nhân  trong mẫu  nghiên cứu được thể hiện ở bảng 1 và 2:  Bảng 1: Đặc điểm nhiễm HBV và HCV  Số trường hợp Tỉ lệ % HBsAg(-),antiHCV(-) 8 9 HBsAg(+),antiHCV(-) 57 59 HBsAg(+),antiHCV(+) 4 4 HBsAg(-),antiHCV(+) 27 28 Bảng 2: Đặc điểm cận lâm sàng  Giá trị Bilirubin(mg/dl) 1,1(0,8-1,5)(*) ALT(mg/dl) 43,5(26,2-68)(*) Albumin(g/dl) 4,2±0,5 Creatinin(mg/dl) 1,1±0,3 Thời gian Prothrombin(giây) 13,3±1,7 Tiểu cầu(G/l) 142(97-196)(*) AFP trước RFA(ng/ml) 61,6(17,9-397)(*) AFP sau RFA 1 tháng(ng/ml) 16,9(6,4-109)(*) (*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng  tứ vị Q1‐Q3).  Đặc điểm ung thư biểu mô tế bào gan  Chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan  Trong 96 trường hợp trong mẫu nghiên cứu,  74 trường hợp chúng tôi chẩn đoán dựa vào kết  quả  CT  scan  bụng  phù  hợp  UTBMTBG;  13  trường hợp chẩn đoán dựa vào kết quả CT scan  bụng và MRI bụng phù hợp; 9 trường hợp chẩn  đoán dựa vào kết quả giải phẫu bệnh.  Đặc điểm tổn thương u  Trong 96 trường hợp trong mẫu nghiên cứu, 76  bệnh nhân có 1 u,15 bệnh nhân có 2 u và 5 bệnh  nhân  có  3  u.  Kích  thước  u  trung  bình  là  26,3±  8,7mm. Các u gan phân bố theo nhiều thùy khác  nhau được thể hiện ở bảng 3. U gần bao gan chiếm  tỉ lệ 45% và u gần mạch máu chiếm tỉ lệ 9%.  Bảng 3: Phân bố vị trí u  Vị trí u (hạ phân thùy) Số lượng u Tỉ lệ I 0 0 II 4 3 III 8 7 IV 18 15 V 19 16 VI 24 20 VII 23 19 VIII 25 21 Kết quả điều trị UTBMTBG  Trong  121  u  được  điều  trị  bằng  phương  pháp RFA có 105 u đạt kết quả hủy u hoàn toàn  trên phim CT  scan bụng  sau 1  tháng  làm RFA  chiếm tỉ lệ 87%. Đối với những u có đường kính  < 30mm, tỉ lệ đạt hủy u hoàn toàn sau 1 tháng là  93%,  còn  đối  với  những  u  có  đường  kính  ≥  30mm,  tỉ  lệ hủy u hoàn  toàn  là 76%. Tỉ  lệ xuất  hiện u mới sau 1 tháng làm RFA là 15% và có 1  trường hợp xuất hiện huyết khối tĩnh mạch cửa.  Tỉ  lệ xảy  ra biến  chứng nhẹ  là 2,1% gồm 2  trường  hợp  tụ máu  vùng  làm RFA. Tỉ  lệ  biến  chứng nặng  là 1% gồm 1  trường hợp  tràn máu  màng phổi phải sau làm RFA.   Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ hủy u không  hoàn toàn  Các yếu tố từ đặc điểm bệnh nhân  Bảng 4: Phân tích đơn biến các yếu tố từ đặc điểm  bệnh nhân liên quan đến tỉ lệ hủy u không hoàn toàn  Yếu tố Huỷ u hoàn toàn (N = 105) Huỷ u không hoàn toàn (N = 16) p Tuổi <60 40 (85,1%) 7 (14,9%) 0,666 ≥60 65 (87,8%) 9 (12,2%) Giới Nam 64 (82,1%) 14 (17,9%) 0,039 Nữ 41 (95,3%) 2 (4,7%) Báng bụng Có 12 (85,7%) 2 (14,3%) 1,000 Không 93 (86,9%) 14 (13,1%) Bảng 5: Phân tích đơn biến các yếu tố từ đặc điểm  cận lâm sàng liên quan đến tỉ lệ hủy u không hoàn  toàn  Hủy u hoàn toàn Hủy u không hoàn toàn (N=105) (N=16) Bilirubin 0,691 <2mg/dL 92(86%) 15(14%) ≥2mg/dL 13(92,9%) 1(7,1%) Tiểu cầu 1,000 <100G/L 27(87,1%) 4(12,9%) ≥100G/L 78(86,7%) 12(13,3%) HBsAg 0,460 Dương tính 62 (84,9%) 11 (15,1%) Âm tính 43 (89,6%) 5 (10,4%) AntiHCV 1,000 Dương tính 32 (86,5%) 5 (13,5%) Âm tính 73 (86,9%) 11 (13,1%) AFP 0,460 ≤ 10ng/mL 17(94,4%) 1(5,6%) >10ng/mL 84(84,8%) 15(15,2%) Yếu tố p Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 19 Các yếu tố từ đặc điểm u  Bảng 6: Phân tích đơn biến các yếu tố từ đặc điểm u  liên quan đến tỉ lệ hủy u không hoàn toàn  Hủy u hoàn toàn Hủy u không hoàn toàn (N= 105) (N=16) Kích thước u 0,005 <30mm 71(93,4 %) 5 (6,6%) ≥ 30mm 34 (75,6%) 11 (24,4%) U gần bao gan 0,123 Có 44 (81,5%) 10 (18,5%) Không 61 (91%) 6 (9%) U gần vòm hoành 0,015 Có 12 (66,7%) 6 (33.3%) Không 93 (90,3%) 10 (9,7%) U gần mạch máu 1,000 Có 10 (90,9%) 1 (9,1%) Không 95 (86,4%) 15 (13,6%) Yếu tố p Tiến hành phân  tích đa biến các yếu  tố  liên  quan đến hủy u hoàn toàn có ý nghĩa thống kê  trên chúng tôi ghi nhận được kết quả như sau:  Bảng 7: Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tỉ  lệ hủy u hoàn toàn  Yếu tố OR Khoảng tin cậy 95% P Giới (nam) 0,142 0,026 – 0,785 0,025 U gần vòm hoành 0,153 0,038 – 0,615 0,008 U < 30mm 4,321 1,295 – 14,421 0,017 Nhận xét: phân tích đa biến cho thấy các yếu  tố  giới, u  gần  vòm  hoành, u  có  đường  kính  <  30mm vẫn  là  các yếu  tố  có  liên quan  đến  tỉ  lệ  hủy u hoàn  toàn. Các mối  liên  quan  đều  có  ý  nghĩa thống kê.  ‐ Giới nam có tỉ lệ hủy u hoàn toàn thấp hơn  giới nữ với OR = 0,142, khoảng  tin  cậy 95%  là  0,026‐0,785 và p= 0,025.  ‐ U  gần  vòm  hoành  làm  giảm  tỉ  lệ  hủy  u  hoàn toàn với OR = 0,153, khoảng tin cậy 95% là  0,038‐0,615 và p=0,008.  ‐ U có đường kính <30mm có  tỉ  lệ đáp ứng  hủy  u  hoàn  toàn  cao  hơn  u  có  đường  kính  ≥  30mm  với OR  =  4,321,  khoảng  tin  cậy  95%  là  1,295‐14,421 và p= 0,017.  Sự thay đổi giá trị AFP trước và sau điều trị  ‐ Ở nhóm đạt kết quả hủy u hoàn toàn, nồng  độ AFP giảm rõ rệt sau điều trị. Mối liên hệ này  có ý nghĩa thống kêvới p = 0,000.  ‐ Ở nhóm có kết quả hủy u không hoàn toàn  và/ hoặc  xuất hiện u mới  sau  1  tháng  điều  trị  bằng phương pháp RFA, nồng  độ AFP  không  giảm  sau  điều  trị. Mối  liên hệ này không  có ý  nghĩa thống kê với p = 0,549.  BÀN LUẬN  Kết quả  điều  trị ung  thư biểu mô  tế bào  gan  Tỉ lệ hủy u hoàn toàn  Mục  tiêu của phương pháp điều  trị RFA  là  đạt được sự hủy u hoàn  toàn, không còn mô u  tiến  triển  trong  vùng  điều  trị.  Chúng  tôi  ghi  nhận tỉ lệ hủy u hoàn toàn sau 1 tháng điều trị là  87%, trong đó, tỉ lệ hủy u hoàn toàn ở nhóm u <  30mm là 93%, còn ở nhóm u ≥ 30mm là 76%. Sự  khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p =0,005.  Nghiên cứu của Ahmet Ayav tại Pháp (2) điều trị  311 u, 226 u được điều trị RFA qua da, 85 u được  điều trị RFA qua nội soi hay mổ hở, tỉ lệ hủy u  hoàn toàn là 86%, trong đó tỉ lệ hủy u hoàn toàn  ở nhóm u có đường kính ≤ 30mm là 89,2% và ở  nhóm u có đường kính > 30mm là 76%. Nghiên  cứu  của Vincent Wai‐To  Lam  tại Hồng Kông,  Trung Quốc(6)  điều  trị 393 u, 47%  điều  trị RFA  qua da, 10% điều trị RFA qua nội soi, 41% điều  trị RFA qua mổ hở và 2% điều trị RFA qua mổ  ngực nội  soi,  tỉ  lệ hủy u hoàn  toàn  đạt  91,6%,  trong  đó  tỉ  lệ  hủy  u  hoàn  toàn  ở  nhóm  u  có  đường kính  ≤ 30mm  là 94,5% và  ở nhóm u  có  đường  kính  >  30mm  là  87%. Nghiên  cứu  của  Takuma Teratani tại Nhật(12) điều trị 1419 u bằng  phương pháp  điều  trị RFA qua da,  tỉ  lệ hủy u  hoàn  toàn  là 99,9%. Sự khác nhau về  tỉ  lệ  đáp  ứng hoàn  toàn  giữa  các  nghiên  cứu  có  thể do  kích  thước u  trong  các nghiên  cứu khác nhau,  đường  tiếp  cận  u  để  điều  trị  khác  nhau,  kinh  nghiệm điều  trị của bác sĩ  làm RFA khác nhau  và sự khác nhau của các loại kim đốt. Tuy nhiên,  đa số nghiên cứu đều cho thấy tỉ lệ hủy u hoàn  toàn  đạt  cao  hơn  ở  nhóm  u  có  đường  kính  <  30mm.  Biến chứng  Biến chứng xảy ra do RFA được chia thành  2 loại gồm biến chứng nặng và biến chứng nhẹ  theo  tiêu  chuẩn  của Hiệp Hội  X Quang  Thế  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 20 Giới(4).  Biến  chứng  nặng  là  biến  chứng  nếu  không  điều  trị  bệnh  nhân  sẽ  bị  tử  vong  hay  cần phải nằm viện điều  trị  thời gian dài hoặc  để  lại di chứng không hồi phục. Những bệnh  nhân bị biến chứng cần phải  truyền máu hay  can  thiệp  dẫn  lưu  cũng  được  xem  là  bị  biến  chứng  nặng(4).  Các  biến  chứng  còn  lại  được  xem là biến chứng nhẹ.  Nghiên cứu của Ahmet Ayav tại Pháp(2) trên  163  bệnh  nhân  với  311  u  cho  thấy  không  có  trường hợp nào tử vong. Tỉ lệ xảy ra biến chứng  nặng  là 7% gồm áp xe gan  (7  trường hợp), dò  mật  (2  trường hợp), hẹp  đường mật  (1  trường  hợp),  xuất  huyết  trong  gan  (2  trường  hợp),  huyết khối  tĩnh mạch  cửa  (3  trường hợp),  suy  gan  (3  trường hợp),  suy  tim  (5  trường hợp) và  gieo rắc tế bào u theo đường kim đốt (2 trường  hợp).   Tito  Livraghi  và  cộng  sự  nghiên  cứu  biến  chứng của phương pháp hủy u bằng RFA ở 41  trung  tâm  tại Ý  (8) với 3554 u được điều  trị ghi  nhận tỉ lệ tử vong là 0,3% do thủng ruột gây suy  đa cơ quan, viêm phúc mạc do Staphylococcus  aureus  gây  sốc  nhiễm  trùng,  xuất  huyết  nội  lượng  lớn do u vỡ, suy gan do hẹp nhánh gan  phải.  Tỉ  lệ  xảy  ra  biến  chứng  nặng  là  2,2%  thường  là do xuất huyết nội, sự gieo rắc tế bào  ung  thư  theo  kim  đốt,  áp  xe  gan,  thủng  ruột.  Biến chứng nhẹ có tỉ lệ là 5%.  Mulier và cộng sự phân tích gộp 82 bài báo  cáo  cho  thấy  tỉ  lệ  xuất  huyết  nội  1,6%,  nhiễm  trùng ổ bụng 1,1%, tổn thương ống mật 1%, suy  gan 0,8%, biến chứng về phổi 0,8%, phỏng 0,6%,  tổn  thương  mạch  máu  trong  gan  0,6%,  tổn  thương nội tạng 0,5%(10).  Nghiên cứu của Lê Lộc tại bệnh viện Trung  ương Huế  trên 36 bệnh nhân cho  thấy chỉ có 2  trường hợp xảy ra biến chứng tụ máu dưới bao  gan, chiếm tỉ lệ 4%(7). Không có trường hợp nào  tử vong do biến chứng sau đốt RFA.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chú