Đặt vấn đề: Mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả cũng như tính an toàn của phương pháp mổ
ít xâm lấn đặt dãi băng TOT qua lỗ bịt điều tri tiểu không kiểm soát khi gắng sức (TKKSKGS) ở phụ nữ.
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: 126 phụ nữ bị TKKSKGS trên lâm sàng, khám nghiệm pháp
Bonney (+) và xét nghiệm niệu động lực học cho thấy vùng kiểm soát nước tiểu âm tính ≥70%. Tất cả bệnh
nhân được phẫu thuật đặt dãi băng TOT dưới niệu đạo (từ 02/2006 đến 10/2010). Có 5 BN có phẫu thuật điều
trị TKKS trước đó. Có 4 BN được phẫu thuật sa bàng quang đi kèm. Tuổi trung bình 54 tuổi (39-85). Dãi băng
polypropylene (Cousin, Aspide Medicale) được đặt dưới niệu đạo qua lỗ bịt theo hướng từ trong ra ngoài. Thời
gian theo dõi trung bình 12 tháng. Đánh giá biến chứng quanh và sau mổ, kết quả khách quan qua nghiệm pháp
gắng sức, kết quả chủ quan qua các câu hỏi về sự hài lòng của BN sau phẫu thuật.
Kết quả: Đánh giá kết quả sau 1 năm thành công 96,8%, có cải thiện nhưng xem như thất bại 3,2%. Biến
chứng quanh và sau mổ 19,8% không có vết thương mạch máu, thần kinh hay ống tiêu hóa. Có 9 BN (7,1%)
đau đùi nhẹ sau mổ. 12 BN (9,5%) có rối loạn đi tiểu sau mổ (tiểu khó hay bí tiểu). Không có hiện tượng đào
thải mảnh ghép hay bào mòm âm đạo trong quá trình theo dõi.
Kết luận: Sau 1 năm nghiên cứu tiến cứu kỹ thuật mổ qua lỗ bịt được khởi xướng bởi E Delorme, có thể
khẳng định đây là một phương pháp mổ để điều trị TKKSKGS ở phụ nữ mang tính đơn giản nhưng hiệu quả
và an toàn với biến chứng không thấp, có thể phối hợp cùng lúc với phẫu thuật điều trị sa tạng chậu.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng giá đỡ dưới niệu đạo TOT tại Bệnh viện FV Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 137
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT KHI GẮNG SỨC
Ở PHỤ NỮ BẰNG GIÁ ĐỠ DƯỚI NIỆU ĐẠO TOT TẠI BỆNH VIỆN FV
TP HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Tiến*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả cũng như tính an toàn của phương pháp mổ
ít xâm lấn đặt dãi băng TOT qua lỗ bịt điều tri tiểu không kiểm soát khi gắng sức (TKKSKGS) ở phụ nữ.
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: 126 phụ nữ bị TKKSKGS trên lâm sàng, khám nghiệm pháp
Bonney (+) và xét nghiệm niệu động lực học cho thấy vùng kiểm soát nước tiểu âm tính ≥70%. Tất cả bệnh
nhân được phẫu thuật đặt dãi băng TOT dưới niệu đạo (từ 02/2006 đến 10/2010). Có 5 BN có phẫu thuật điều
trị TKKS trước đó. Có 4 BN được phẫu thuật sa bàng quang đi kèm. Tuổi trung bình 54 tuổi (39-85). Dãi băng
polypropylene (Cousin, Aspide Medicale) được đặt dưới niệu đạo qua lỗ bịt theo hướng từ trong ra ngoài. Thời
gian theo dõi trung bình 12 tháng. Đánh giá biến chứng quanh và sau mổ, kết quả khách quan qua nghiệm pháp
gắng sức, kết quả chủ quan qua các câu hỏi về sự hài lòng của BN sau phẫu thuật.
Kết quả: Đánh giá kết quả sau 1 năm thành công 96,8%, có cải thiện nhưng xem như thất bại 3,2%. Biến
chứng quanh và sau mổ 19,8% không có vết thương mạch máu, thần kinh hay ống tiêu hóa. Có 9 BN (7,1%)
đau đùi nhẹ sau mổ. 12 BN (9,5%) có rối loạn đi tiểu sau mổ (tiểu khó hay bí tiểu). Không có hiện tượng đào
thải mảnh ghép hay bào mòm âm đạo trong quá trình theo dõi.
Kết luận: Sau 1 năm nghiên cứu tiến cứu kỹ thuật mổ qua lỗ bịt được khởi xướng bởi E Delorme, có thể
khẳng định đây là một phương pháp mổ để điều trị TKKSKGS ở phụ nữ mang tính đơn giản nhưng hiệu quả
và an toàn với biến chứng không thấp, có thể phối hợp cùng lúc với phẫu thuật điều trị sa tạng chậu.
Từ khóa: Tiểu không kiểm soát, TOT.
ABSTRACT
SURGICAL TREATMENT OF FEMALE STRESS URINARY INCONTINENCE WITH A TRANS-
OBTURATOR-TAPE (T.O.T.) AT FV HOSPITAL HO CHI MINH CITY: SHORT TERM RESULTS OF A
PROSPECTIVE STUDY.
Nguyen Ngoc Tien *Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 137 - 145
Objective: The aim of the study was to assess the efficacy and safety of a new minimally invasive surgical
procedure using the Trans-Obturator-Tape (TOT) to treat female stress urinary incontinence.
Patients and methods: 126 women with stress urinary incontinence (SUI) with Bonney manoevre positive
associated with continence area control were negative ≥70% on urodynamic investigation. All the patients
underwent the T.O.T. procedure (February 2006 to October 2010). 5 patients were previously operated for
incontinence. 4 patients were operated at the same time for their cystocele. Mean age was 54 years (39-85). A
polypropylene tape (Cousin, Aspide Medicale) was placed under the mid-urethra. The surgical placement
technique utilises a trans-obturator inside-out approach. The average follow-up was 12 months. Morbidity per and
peri operation, the objective result by stress-test, the subjective result by questionnaire of satisfaction and the
short-term complications were analyzed.
* Bệnh Viện FV TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.Bs Nguyễn Ngọc Tiến. ĐT: 0913718836. Email: tien.nguyen@fvhospital.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 138
Results: At 1 year follow-up 96.8% of the patients were completely cured and 3.2% were improved. The
overall peri-operative complication rate was 19.8% with no vascular, nerve or bowel injury. 9 patients (7.1%) had
slight thigh pain. 12 patients (9.5%) had post-operative dysuria or urinary retention. In the long run there were
no rejection of the prosthesis and no vaginal erosions.
Conclusion: The present prospective study with confirms the results obtained by the instigator of the
technique, E. Delorme, and allows us to consider T.O.T. as a simplicity technique but effective and safe with low
morbidity for the treatment of female stress urinary incontinence, alone or in combination with prolapse repair.
Key words: Urinary incontinence, TOT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức(29) được
định nghĩa là một hiện tượng thoát nước tiểu ra
ngoài niệu đạo không theo ý muốn cũng như
không do sự co thắt của cơ détrusor. Hiện tượng
này diễn ra nặng dần đến một lúc nào đó người
phụ nữ cảm thấy “tàn phế” với chất lượng cuộc
sống suy giảm(1). Nhiều tiến bộ đã được báo cáo
từ đầu thế kỷ về phát triển phẫu thuật kiểm soát
nước tiểu. Kelly, Dumm (1914)(20) và sau đó,
Bonney(5) đã ghi nhận hiện tượng mất nâng đỡ
vùng niệu đạo trên những phụ nữ tiểu không
kiểm soát khi gắng sức nên đã đề nghị phương
pháp khâu nếp gấp của cân quanh niệu đạo.
Đến 1949, Marshall(26) theo kinh nghiệm của
mình đã đính mô quanh niệu đạo vào xương
mu để làm giảm đi hiện tương tiểu không kiểm
soát khi gắng sức. Nhiều tác giả sau đó đã phát
triển kỹ thuật chống tiểu không kiểm soát bằng
cách cố định gián tiếp cổ bàng quang và mô
xung quanh niệu đạo thông qua âm đạo (treo cổ
bàng quang qua dây chằng Cooper theo Burch,
treo cổ bàng quang đơn giản theo Pereyra và
Raz). Năm 1976, Richardson(32) đã đề nghị
phương pháp điều trị tùy theo từng bệnh nhân
và theo sinh lý bệnh học. Thật vậy, cùng giai
đoạn này, người ta đã phân biệt được hiện
tượng tiểu không kiểm soát do suy yếu cơ vòng
và hiện tượng tiểu không kiểm soát do suy yếu
sự nâng đỡ niệu đạo đi kèm với tăng dịch
chuyển của niệu đạo(21). Do đó, De Lancey (1994)
đã nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của việc
nâng đỡ niệu đạo(10,11) song song đó Petros và
Ulmsten đã mô tả hệ thống nâng đỡ niệu đạo
“động”, đã làm nền tảng cho kỹ thuật đặt giá đỡ
dưới niệu đạo không căng TVT và sau đó là kỹ
thuật TOT.
Tại Việt Nam, từ lâu các phẫu thuật viên
niệu khoa cũng đã ứng dụng các kỹ thuật điều
trị tiểu không kiểm soát như kỹ thuật Marion-
Kelly, Marshall- Marchetti, Goebell Stoeckell,
Burch.... Tuy có nhiều kỹ thuật điều trị, nhưng
vẫn chưa có kỹ thuật nào có thể nói là tối ưu, do
đó chúng tôi nghiên cứu một phương pháp với
hy vọng điều trị tốt và phù hợp nhất trong hoàn
cảnh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả BN có triệu chứng TKKSKGS đến
khám tại khoa Niệu Bệnh viện FV trong thời
gian nghiên cứu từ tháng 2/2006 đến tháng
10/2010 có chỉ định phẫu thuật đặt giá đỡ dưới
niệu đạo.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Có hiện tượng tiểu không kiểm soát khi
gắng sức trên lâm sàng. Khám lâm sàng: nghiệm
pháp Bonney (+). Thăm khám Niệu động lực
học: bàng quang ổn định, vùng kiểm soát nước
tiểu âm tính ≥ 70%.
Tiêu chuẩn loại trừ
Rối loạn đi tiểu khác đi kèm với nước tiểu
tồn lưu > 100 ml. Bệnh nhân vẫn chấp nhận cuộc
sống với tình trạng tiểu không kiểm soát khi
gắng sức hoặc không đồng ý phẫu thuật. Có
chống chỉ định phẫu thuật sau khi khám tiền
mê. Bệnh nhân còn có ý định sanh con. Bệnh
nhân có tiền sử xạ trị vùng chậu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 139
Tiêu chuẩn đánh giá thành công hay thất
bại
-Bệnh nhân được xem là thành công khi
chấm dứt hoàn toàn TKKSKGS trong tuần đầu
tiên sau mổ.
-Bệnh nhân được xem như thất bại khi lâm
sàng còn TKKSKGS dù ít hay nhiều.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ 2/2006 đến 10/2010,
tại khoa Niệu Bệnh viện FV TP Hồ Chí Minh.
Phương tiện và trang thiết bị
-Dụng cụ trong phẫu thuật: cần bộ dụng cụ
trung phẫu thông thường nhưng đặc biệt lưu ý
những dụng cụ tuyệt đối cần thiết như: kéo đầu
tù Metzenbaum cỡ vừa, kẹp Babcock, mảnh
ghép dùng làm giá đỡ dưới niệu đạo
polypropylène loại đơn sợi, bộ kim dùng để đặt
giá đỡ TOT có cải biên có thể khử trùng sử dụng
lại nhiều lần và riêng dùng cho kỹ thuật đặt giá
đỡ từ trong ra ngoài (có tay cầm thuận lợi cho
phẫu thuật viên có lỗ ở đầu kim để mang dây
của giá đỡ), ống thông niệu đạo bàng quang
Foley CH16.
-Bộ dụng cụ nội soi bàng quang với ống
kính có góc nhìn 700 hiệu Storz cũng phải được
chuẩn bị sẵn sàng trong trường hợp cần phải
kiểm tra khi có dấu hiệu nghi ngờ có biến chứng
thủng bàng quang trong lúc mổ.
-Siêu âm: để đánh giá các bệnh lý đi kèm
cũng như nước tiểu tồn lưu, máy đo niệu động
lực học, máy chụp hình, quay phim..
Phương thức tiến hành
Thăm khám trước mổ:
Lâm sàng
+Đánh giá thang điểm MHU (Mesure du
Handicap Urinaire), thang điểm chất lượng cuộc
sống Ditrovie, mức độ TKKSKGS theo
Ingelmann Sundberg. Một số yếu tố phụ khác:
đặt băng âm đạo bảo vệ, sự ảnh hưởng của
TKKSKGS lên sinh hoạt xã hội, sinh hoạt tình
dục.
+Khám lâm sàng với bàng quang đầy dung
tích ít nhất là 250 ml, cho bệnh nhân ho để tìm
nghiệm pháp Bonney dương tính. Cơ nâng hậu
môn cũng được ghi nhận theo tiêu chuẩn đánh
giá sức cơ.
Cận lâm sàng
+Siêu âm hệ niệu: nhằm phát hiện các bất
thường khác đi kèm trên hệ niệu cũng như đo
nước tiểu tồn lưu nếu có. Đo niệu động lực học:
nhằm đánh giá tình trạng ổn định của bàng
quang, áp lực cơ vòng niệu đạo, niệu dòng đồ
tối đa và vùng kiểm soát nước tiểu âm tính.
+Các xét nghiệm thường quy.
Chọn bệnh theo tiêu chuẩn chọn bệnh, giải
thích phương pháp phẫu thuật đặt giá đỡ qua lỗ
bịt TOT. Hoàn tất phiếu đồng ý phẫu thuật.
Khám tiền mê bởi Bác Sĩ gây mê với các xét
nghiệm tiền mê và phân loại nguy cơ theo ASA
và kiểm tra có chống chỉ định gây mê hay
không.
Kỹ thuật mổ
Chọn kỹ thuật mổ đặt giá đỡ dưới niệu đạo
TOT từ trong ra ngoài (Inside-out) tại Việt Nam
và trong điều kiện Việt Nam được tiến hành
như sau:
-Vô cảm: Gây mê nội khí quản hoặc tê tủy
sống.
-Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa tư thế sản phụ
khoa.
-Trải khăn vùng mổ: để lộ nếp đùi
-Treo môi nhỏ bằng mũi chỉ Nylon phía
trong nếp đùi.
-Đặt thông Foley CH 16: làm trống bàng
quang hoàn toàn.
-Định vị trí ra của giá đỡ ở vùng bẹn 2 bên
-Rạch niêm mạc âm đạo dài 1cm và dưới lỗ
niệu đạo.
-Tách âm đạo và mô quanh niệu đạo cho
đến khi tiếp xúc với ngành ngồi – mu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 140
-Đặt dụng cụ dẫn đường cho kim TOT mang
giá đỡ.
-Đặt kim TOT.
-Thực hiện cùng động tác và đặt kim cho
bên đối diện.
-Giá đỡ được đưa vào dưới niệu đạo.
-Kéo 2 đầu giá đỡ ngoài ra da.
-Cắt giá đỡ ngoài da hai bên bẹn.
-Khâu đường rạch âm đạo và đường rạch da
bẹn 2 bên.
-Ống thông niệu đạo được lấy ra sáng hôm
sau trước khi xuất viện.
Đánh giá kết quả phẫu thuật: Theo dõi bệnh
nhân sau mổ 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 1 năm.
Đánh giá các biến chứng (nếu có).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu.
Đặc điểm Số TH Tỷ lệ (%)
Tuổi
< 55
> 55
79
47
62,7
37,3
Tiền sử sanh con
Tiền sử sanh khó
10
7,9
Tiền sử nội khoa
Cao HA
Tiểu đường
Cao HA + Tiểu đường
Tiền sử nội khoa khác
20
2
7
24
15,9
1,6
5,6
19
Tiền sử điều trị TKKSKGS trước đó 5 4,0
Tiền sử ngoại khoa khác 34 27
Đặt băng bảo vệ âm đạo 45 35,7
Ảnh hưởng đến tình dục 48
Ảnh hưởng đến xã hội 61,9
Tăng dịch chuyển niệu đạo cổ bàng
quang
59 46,8
Sa tạng chậu đi kèm
Sa bàng quang
Sa sinh dục
Sa trực tràng
16
1
4
11,9
0,8
3,2
Sức cơ nâng hậu môn
Độ 0
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 4
3
22
79
16
6
2,4
17,5
62,7
12,7
4,8
Đặc điểm Số TH Tỷ lệ (%)
Mức độ TKKSKGS trước mổ
Độ 1
Độ 2
Độ 3
29,4
61,9
8,7
Thăm khám niệu động lực học trước mổ
Bàng quang không ổn định
Tăng áp lực cơ vòng
Suy yếu cơ vòng
Cổ bàng quang mở khó
Vùng kiểm soát nước tiểu âm tính >
70%
Niệu dòng đồ bình thường
4
34
126
126
3,2
31
20
27
100
100
Phương pháp vô cảm khi mổ
Gây mê
Gây tê
71,4
28,6
Thời gian mổ
10 – 20 phút
20 – 30 phút
> 30 phút
35
62
3
Phẫu thuật đi kèm 4 3
Thời gian nằm viện
1 ngày
2 ngày
3 ngày
4 ngày
5 ngày
110
3
7
5
1
87,3
2,4
5,6
3,9
0,8
Kết quả về các triệu chứng lâm sàng và cận
lâm sàng trước mổ
Điểm số các triệu chứng cơ năng trên hệ
niệu trước mổ được ghi nhận sau:
Bảng 2: Kết quả trả lời câu hỏi MHU của bệnh nhân
trước mổ TOT.
MHU trước
mổ
Điểm số trung
bình ± Độ lệch
chuẩn
Trung vị
(khoảng tứ vị)
Tối thiểu-tối
đa
MHU 1
MHU 2
MHU 3
MHU 4
MHU 5
0,88 ± 1,383
1,59 ± 1,698
2,25 ± 0,498
0
0
0 (0-2)
1 (0-2)
2 (2-2)
0- 6
0- 7
2- 4
-Theo bảng chất lượng cuộc sống Ditrovie:
+Điểm số trước mổ: 3 (3-4) điểm: trung vị
(khoảng tứ vị).
Như vậy: Có 50% mẫu nghiên cứu có chất
lượng cuộc sống trước mổ là 3. Chất lượng sống
của BN bị ảnh hưởng ít nhiều và không có ai
cảm thấy thật sự thoải mái với tình trạng hiện tại
của họ liên quan đến vấn đề đi tiểu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 141
Kết quả về mặt chức năng đi tiểu sau mổ
Bảng 3: Kết quả trả lời câu hỏi MHU của bệnh nhân
sau mổ TOT.
MHU sau mổ
Điểm số trung
bình
± Độ lệch chuẩn
Trung vị
(khoảng tứ vị)
Tối thiểu
- tối đa
MHU 1
MHU 2
MHU 3
MHU 4
MHU 5
0,33 ± 0,837
0,42 ± 0,991
0,06 ± 0,374
0
0,25 ± 0,826
0 (0-0)
0 (0-0)
0 (0-0)
0
0 (0-0)
0 - 4
0 - 6
0 - 3
0
0 - 4
Bảng 4: Các rối loạn đi tiểu của bệnh nhân sau mổ
TOT.
Số TH Tỷ lệ (%)
3 tháng 6 tháng 1 năm 3 tháng 6 tháng 1 năm
Bí tiểu
Tiểu khó
Tiểu gấp
mới xuất
hiện
4
8
8
0
0
4
0
0
3
3,2
6,3
6,3
0
0
3,2
0
0
2,4
Tổng
cộng
20 4 3 15,8 3,2 2,4
Kết quả về các biến chứng sau mổ
Bảng 5: kết quả các biến chứng sau mổ.
Biến chứng Số TH Tỷ lệ (%)
Trong lúc mổ:
Vết thương bàng quang hay niệu
đạo
Rách âm đạo
Chảy máu
Thủng tiêu hóa
0
2/126
0
0
0
1,6
0
0
Sau mổ sớm
Tụ máu nông vùng mổ
Khối máu tụ vùng Retzius
Đau đùi
Rối loạn tắc nghẽn sau mổ (tiểu
khó, bí tiểu)
2/126
1/126
9/126
12/126
1,6
0,8
7,1
9,5
Sau mổ muộn
Bào mòn âm đạo
Bào mòn bàng quang
Bào mòn niệu đạo
0
0
0
0
0
0
Tổng cộng 25/126 19,8
BÀN LUẬN
Biến chứng
Theo y văn tỷ lệ biến chứng chung sau phẫu
thuật TVT là 4% đến 75% và sau phẫu thuật
TOT là 10,5 đến 31% (7).
Các biến chứng trong lúc mổ
-Vết thương bàng quang và vết thương niệu
đạo
Các tổn thương đường tiểu dưới sau đặt giá
đỡ dưới niệu đạo qua lỗ bịt tương đối hiếm(31)
nhưng cũng đã được mô tả trong y văn(4).Theo
đó, tỷ lệ thủng bàng quang qua lỗ bịt là dưới
1%(23). Theo nghiên cứu của Sung và cộng sự cho
thấy nguy cơ thủng bàng quang qua ngã lỗ bịt
giảm (0,2%) so với ngã sau xương mu (3,5%)(34).
Các kết quả nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên và
đa trung tâm của David Montefiore và cs cũng
cho thấy kết quả tương tự(9). Trong loạt nghiên
cứu của tôi không có biến chứng thủng bàng
quang hay vết thương niệu đạo.
-Vết thương âm đạo
Biến chứng này thường xảy ra trong quá
trình bóc tách âm đạo không đầy đủ qua phẫu
thuật đặt giá đỡ dưới niệu đạo qua lỗ bịt (từ
ngoài vào trong) hay do quá trình đâm kim
không chuẩn qua ngã lỗ bịt (từ trong ra ngoài).
Theo các báo cáo y văn từ 1995 đến 2007, tỷ
lệ rách âm đạo cao hơn trong ngã qua lỗ bịt (0 -
10,9%) so với ngã sau xương mu (0-1,5%)(7). Các
kết quả nghiên cứu tiến cứu của David
Montefiore và cộng sự cũng cho thấy kết quả
tương tự. Theo nghiên cứu này, khâu lại vết
rách âm đạo rất đơn giản bằng những mũi khâu
rời với kết quả rất tốt(9). Cũng theo vài nghiên
cứu có nhận định rằng: vết rách âm đạo xảy ra
nhiều hơn qua đường vào từ ngoài vào trong so
với đường vào từ trong ra ngoài qua lỗ bịt(6).
Chúng tôi có 2 TH vết thương âm đạo trong
bài báo cáo kết quả 52 TH phẫu thuật TOT đầu
tiên và đó cũng chính là 2 TH trong 10 bệnh
nhân khi tôi bắt đầu ứng dụng kỹ thuật mổ mới
này.
-Biến chứng xuất huyết trong lúc mổ
Thống kê cho thấy các biến chứng xuất
huyết qua lỗ bịt trong lúc mổ thì hiếm khi xảy
ra(12,27). Nghiên cứu của tôi cũng không ghi nhận
sự xuất huyết đáng kể nào trong lúc mổ. Chính
vì thế tôi đã không đánh giá lượng máu mất
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 142
cũng như không có trường hợp nào cần truyền
máu.
-Biến chứng thủng bàng quang, đường tiêu hóa
hay mạch máu lớn
Thủng tiêu hóa hay mạch máu lớn là biến
chứng hiếm tuy nhiên nếu có xảy ra thường
rất nặng và thường gặp qua ngã sau xương
mu. Cho tới nay theo y văn chưa có trường
hợp nào được báo cáo về biến chứng thủng
tiêu hoá qua ngã lỗ bịt.
Tôi không có trường hợp có vết thương
đường tiêu hóa cũng như vết thương mạch máu
lớn trầm trọng nào hết.
Các biến chứng sau mổ ngay tức thì (0 đến
48 giờ)
-Máu tụ ngay vùng mổ
Đường đi qua lỗ bịt có nguy cơ gây máu tụ
vùng bẹn(14,19). Các trường hợp máu tụ vùng
Retzius cũng đã được báo cáo(30). Tôi có 1 TH
máu tụ khá to 6 cm vùng Retzius và cạnh bàng
quang. Bệnh nhân có triệu chứng kích thích
bàng quang nặng với tiểu lắt nhắt và tiểu khó.
Bệnh nhân được điều trị bảo tồn với tiến triển
thuận lợi, khối máu tụ được hấp thu từ từ và
biến mất hoàn toàn sau 4 tháng.
-Đau
Đau thường xảy ra sau đặt giá đỡ qua lỗ bịt,
đau thường không rõ ràng có khi ở nếp bẹn, có
khi theo rễ thần kinh đùi. Delorme đã không mô
tả đau sau mổ qua ngã lỗ bịt (12) trong khi đó
theo Krauth và cộng sự đã thấy có hiện tượng
đau thoáng qua sau mổ cần phải sử dụng kháng
viêm không steroid hay các thuốc giảm đau
thông thường(23).
Trong nghiên cứu của tôi có 9 bệnh nhân có
biểu hiện đau đùi ngay sau đặt giá đỡ TOT. Tất
cả những bệnh nhân này cũng được sử dụng các
thuốc giảm đau thông thường hay kháng viêm
không steroid tùy theo từng bệnh nhân, không
có bệnh nhân nào phải cần sử dụng giảm đau
dạng Morphine và đau hoàn toàn chấm dứt qua
lần tái khám 1 tháng sau mổ.
Các biến chứng sau mổ sớm (trước 6 tuần)
-Bí tiểu thoáng qua
Biến chứng này có thể là hậu quả khi căng
giá đỡ dưới niệu đạo quá mức hay do giảm co
thắt cơ bàng quang. Bí tiểu được phát hiện ngay
sau mổ. Trong trường hợp bí tiểu kéo dài quá 7
ngày, nên can thiệp trở lại để giải áp giá đỡ dưới
niệu đạo(18,22,33).
Nghiên cứu của tôi có 4/126 TH bí tiểu cần
phải đặt thông lại sau rút thông. Những trường
hợp này được lưu thông tiểu thêm 24 giờ sau đó
tôi tiến hành nong và hạ giá đỡ bằng thông
nong niệu đạo Beniqué. Tất cả 4 TH đều đi tiểu
được trở lại dần dần với nước tiểu tồn lưu giảm
dần.
-Nhiễm trùng niệu
Tỷ lệ nhiễm trùng niệu sau mổ sớm thường
không chính xác do không thử nước tiểu thường
quy sau mổ. Biến chứng này xem như rất nhẹ.
Ngược lại, tỷ lệ nhiễm trùng niệu trong 6 tháng
sau vào khoảng 22% sau đặt giá đỡ dưới niệu
đạo nói chung và 32% sau phẫu thuật Burch(35).
Một TH nhiễm trùng niệu trong loạt nghiên cứu
của tôi xảy ra 3 tháng sau phẫu thuật đặt giá đỡ
dưới niệu đạo, xét nghiệm ECBU khẳng định vi
trùng E.Coli còn nhạy cảm với quinolone.
Các biến chứng sau mổ muộn (sau 6 tuần)
-Bào mòn âm đạo
Tỷ lệ bào mòn âm đạo được báo cáo sau đặt
giá đỡ không silicone từ 0 -1,6%(8,24). Tỷ lệ này
tăng lên cho những mảnh ghép dưới niệu đạo
qua lỗ bịt bằng silicone(15).
Tôi không có TH bào mòn âm đạo sau 1 năm
theo dõi. Tôi nghĩ rằng sẽ tiếp tục theo dõi
những bệnh nhân này trong nhiều năm tiếp theo
để có thể đóng góp cho y văn về tỉ lệ có liên
quan đến mảnh ghép nhân tạo dạng này.
-Rối loạn đi tiểu mới xuất hiện
Tiểu gấp mới xuất hiện và hội chứng bàng
quang bất ổn định trên lâm sàng. Tỷ lệ tiểu gấp
mới xuất hiện có hay không có đi kèm với rỉ
nước tiểu sau khi đặt giá đỡ dưới niệu đạo
khoảng 10 đến 13%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập