Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 91
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐẶT LÙI HÀM DƯỚI BẰNG KỸ THUẬT 
CẮT CHẺ DỌC NGÀNH LÊN XƯƠNG HÀM DƯỚI 
Nguyễn Văn Hóa* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị biến dạng xương hàm dưới (XHD) bằng kỹ thuật cắt chẻ dọc ngành lên 
trong phẫu thuật (PT) đặt lùi XHD. 
Phương pháp: Trên 28 bệnh nhân có biến dạng nhô xương hàm dưới gồm 22 nữ, 6 nam tuổi từ 17-38, 
được phẫu thuật tại bệnh viện RHM thành phố Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Kết quả về chức năng chung: 89,3% đạt loại tốt và 10,7% xếp loại trung bình không có loại kém, 
kết quả về thẩm mỹ: 100% đạt loại tốt. 
Kết luận: Kỹ thuật cắt chẻ dọc ngành lên XHD là phương pháp tiêu chuẩn cho điều trị biến dạng nhô 
XHD. Kết quả cuả nghiên cứu cho thấy kỹ thuật cắt chẻ dọc ngành lên XHD với cố định cứng tỏ ra đặc biệt hiệu 
quả cho bệnh nhân nhô hàm dưới. 
Từ khóa: Cắt chẻ dọc ngành lên XHD, cắt XHD, chỉnh sửa sai khớp cắn độ III, chỉnh sửa XHD, nhô XHD, 
biên dạng xương hàm. 
ABSTRACT 
RESULTS FOR TREATMENT SETBACK MANDIBULAR SURGERY BY BILATERAL SAGITTAL SPLIT 
OSTEOTOMY 
Nguyen Van Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 91 - 95 
Objective: Comparison of results for mandibular setback osteotomy by bilateral sagittal split and intraoral 
vertical ramus osteotomy. 
Method: The sample of 28 pateints (22 women và 6 men) was treatmented in Odonto Maxillofacial Hospitall 
Hồ Chí Minh City. They were surgical treatmented by bilateral sagittal split mandibular osteotomy. 
Results: General functional results: 89,3% (25 pateints) were good, the remain were medium. Aesthetic: 
100% (28 pateints) were good. 
Conclutions: Bilateral sagittal split osteotomy were standard surgical regimen in the treatment of patients 
with Class III dentofacial deformity. The results of this Study show that setback mandibular surgery with rigid 
internal fixation was particularly good in mandibular protrusion patiens. 
Keywords: Bilateral sagittal split mandibular osteotomy, intraoral vertical ramus mandibular osteotomy, 
correction of mandibular, correct class III malocclusion, mandibular prognathism, dentofacial deformity. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật đầu tiên ở Hoa kỳ do Hullihen 
thực hiện vào năm 1849 để chỉnh sửa tật nhô 
hàm dưới. Obwegeser (1957) dựa trên cơ sở cắt 
xương theo cấp và diện tích tiếp xúc xương, đã 
thực hiện kỹ thuật cắt chẻ dọc ngành lên XHD 
(BSSO). Theo thời gian kỹ thuật này được cải 
tiến và hoàn thiện nên trở thành một giải pháp 
chọn lựa cho nhiều phẫu thuật viên do: kỹ thuật 
không quá khó, ít gây tai biến, ít biến chứng, 
* Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ - Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Văn Hóa ĐT: 0904397979 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 92
thời gian nằm viện ngắn, kết quả có thể thấy 
ngay sau phẫu thuật (PT). 
Ở Việt Nam có một số bệnh viện chuyên 
ngành đã tiến hành phẫu thuật điều trị cho các 
biến dạng nhô XHD nhưng vẫn còn rải rác và co 
cụm, chưa tập trung được trong khi thực tế nhu 
cầu bệnh quá nhiều. Để các kỹ thuật điều trị 
được phổ biến rộng rãi, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: trình bày 
kỹ thuật mổ và đánh giá kết quả về chức năng 
ăn nhai, vận động hàm và đánh giá kết quả 
thẩm mỹ sau điều trị đặt lùi XHD bằng kỹ thuật 
cắt chẻ dọc ngành lên XHD. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu thực hiện trên 28 bệnh nhân 
được xác định có biến dạng nhô xương hàm 
dưới, được điều trị phẫu thuật từ năm 2007-
2009. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả lâm sàng, theo 
dõi dọc gồm 28 bệnh nhân tiến cứu. Tất cả được 
điều trị đặt lùi XHD bởi kỹ thuật BSSO. 
Kỹ thuật cắt chẻ dọc ngành lên xương hàm 
dưới. 
Phẫu thuật cắt XHD theo kỹ thuật BSSO 
được tiến hành trong điều kiện gây mê giảm 
huyết áp có hô hấp điều khiển với ống nội khí 
quản đặt qua mũi. 
Rạch một đường dọc theo bờ trước của 
ngành lên xương hàm dưới, kéo dài đường rạch 
xuống dưới và ra ngoài đến răng cối lớn thứ hai. 
Bóc tách dưới màng xương ở mặt trong và 
mặt ngoài của ngành lên. Tách chỗ bám của cơ 
cắn ra khỏi mặt ngoài ngành lên XHD vừa đủ để 
cắt xương. 
Nâng vạt niêm cốt mạc lên khỏi động mạch 
và thần kinh răng dưới, tiếp tục bóc tách tới tận 
bờ sau của ngành lên xương hàm dưới. 
Đường cắt đầu tiên ở trên của gai Spix 
khoảng 0,5cm, đường cắt thứ hai theo chiều 
đứng thẳng qua lớp ngoài của thân xương ở 
vùng các răng hàm thứ nhất hoặc thứ hai, và 
đường cắt phải qua bờ dưới của thân xương 
hàm dưới. Đường cắt được thực hiện với mũi 
khoan 702 hoặc một cưa đảo chiều. 
Sử dụng nhiều lưỡi đục sắc, mỏng, bản rộng 
5-7mm để chẻ tách dọc ngành lên, trong khi tiến 
hành chẻ tách ở nhánh này xương hàm dưới 
được chịu lực bởi một một dụng cụ nâng xương 
ở bờ sau ngành lên để giữ vững ngành lên. 
Sau khi việc cắt xương hoàn tất, đặt lại XHD 
vào mối tương quan khớp cắn đã dự định đặt 
máng phẫu thuật và cố định liên hàm. Cố định 
xương bằng các nẹp-mini, cắt cố định liên hàm 
và khâu đóng vết thương bằng chỉ 3.0. 
Phương pháp đánh giá kết quả 
Đánh giá kết quả chức năng riêng 
Đánh giá chức năng ăn nhai 
Tốt: Chức năng ăn nhai tốt (lực nhai trở lại 
bình thường). 
TB: Chỉ nhai được thức ăn mềm (lực nhai 
yếu, còn cảm giác ê hàm). 
Kém: Không nhai nát thức ăn (lực nhai yếu, 
đau khi nhai). 
Đánh giá chức năng vận động khớp 
Tốt: Vận động khớp bình thường. 
TB: Vận động khớp khó khăn, còn đau. 
Kém: Vận động khớp hàm hạn chế (há 
miệng hạn chế). 
Đánh giá dấu hiệu các bệnh lý ở khớp 
Tốt: Không có triệu chứng ở khớp thái 
dương hàm. 
TB: Có triệu chứng ở khớp thái dương hàm. 
Kém: Tăng triệu chứng ở khớp thái dương 
hàm. 
Đánh giá kết quả chức năng chung 
Dựa vào hiệu quả ăn nhai và lực cắn, vận 
động khớp thái dương hàm (KTDH), dấu hiệu 
bệnh lý ở khớp thái dương hàm. 
Kết quả tốt khi cả 3 tiêu chí đạt loại tốt. 
Kết quả trung bình khi ít nhất cả 3 tiêu chí 
xếp loại trung bình. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 93
Kết quả kém khi có ít nhất 1 tiêu chí xếp loại 
kém. 
Đánh giá kết quả thẩm mỹ 
Dựa vào số đo các góc trên phim sọ sau PT, 
dựa vào sự hài hòa của khuôn mặt, dựa vào 
bảng câu hỏi đánh giá dành cho bệnh nhân. 
Tốt: Số đo các góc trên phim sọ thay đổi về 
giá trị chuẩn, khuôn mặt hài hòa. Bệnh nhân hài 
lòng. 
TB: Số đo các góc trên phim sọ thay đổi về 
gần giá trị chuẩn, khuôn mặt tương đối hài hòa. 
Bệnh nhân hài lòng nhưng chưa thỏa mãn. 
Kém: Số đo các góc trên phim sọ có thay đổi, 
khuôn mặt tương đối hài hòa. Bệnh nhân không 
hài lòng. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Hiệu quả nhai và lực cắn 
Bảng 1. Tiến triển về chức năng ăn nhai (n=28). 
Thời điểm đánh giá Tốt TB Kém Số BN đến kiểm tra 
Ngay sau PT 0 0 28 28 
3 tháng sau PT 9 18 0 27 
6 tháng sau PT 13 11 0 24 
9 tháng sau PT 23 0 0 23 
Tất cả các BN sau PT, xương hàm đã được 
đưa về vị trí giải phẫu mới, nên cải thiện rõ rệt 
về mặt thẩm mỹ, tuy nhiên chức năng ăn nhai 
trong thời gian đầu có bị ảnh hưởng, ở bảng 1 
thống kê 28 BN cắt chẻ dọc ngành lên XHD có 
hoặc không kết hợp phẫu thuật XHT cho thấy: 
Ngay sau mổ, tất cả BN đều há miệng hạn chế, 
vận động hàm dưới khó khăn nên phải dùng 
thức ăn lỏng và uống nước trái cây trong những 
ngày đầu. Sau 3 tháng BN chỉ mới ăn được thức 
ăn mềm, và thường có những cảm giác như: ê 
hàm khi ăn nhai hay đau khi vận động mạnh 
xương hàm nên không dám nhai nghiền thức 
ăn. Điều này cũng dể hiểu vì họ chưa thích nghi 
với tư thế cắn khớp mới, hơn nữa đây là giai 
đoạn xương hàm đang trong thời kỳ sửa chữa 
và tái tạo của quá trình liền xương. Ở giai đoạn 
từ 6-9 tháng quá trình liền xương hầu như đã 
hoàn tất, sự liền xương sớm hay muộn tùy 
thuộc vào mức độ mất xương, tuổi tác của bệnh 
nhân hay sự nhiểm khuẩn vết thương. Ở nhóm 
nghiên cứu hiệu quả nhai và lực cắn của bệnh 
nhân được bình phục sau 6 tháng phẫu thuật và 
ổn định chức năng này sau 9 tháng. Phẫu thuật 
chỉnh sửa xương hàm góp phần thiết lập lại tình 
trạng các phân loại sai khớp cắn trở về cắn khớp 
bình thường, là yếu tố cải thiện sức nhai cũng 
như thay đổi về mặt thẩm mỹ. Kết quả trên cũng 
phù hợp với một số tác giả: 
Harada K.(1) đo lực cắn và diện tích tiếp xúc 
của khớp cắn ở những bệnh nhân có tật nhô 
hàm dưới, trước và sau phẫu thuật cắt chẻ dọc 
ngành lên xương hàm dưới. Khảo sát bệnh nhân 
vào những thời điểm: trước phẫu thuật, 2, 4, và 
8 tuần, 3 và 6 tháng sau phẫu thuật và đo lực 
cắn và diện tích tiếp xúc của đối tượng khỏe 
mạnh bình thường để làm đối chứng. Kết quả: 
lực cắn và diện tích tiếp xúc của khớp cắn thấp 
nhất vào thời điểm 2 tuần sau phẫu thuật và hồi 
phục lại được bằng mức độ trước phẫu thuật 
vào thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật. Tuy 
nhiên, ngay thời điểm này thì lực cắn và diện 
tích tiếp xúc của khớp cắn vẫn kém hơn so với 
lực cắn và diện tích tiếp xúc của khớp cắn ở 
người bình thường. Phẫu thuật chỉnh sửa xương 
hàm theo kỹ thuật BSSO làm cải thiện lực cắn so 
với trước khi được điều trị trên những bệnh 
nhân nhô hàm dưới. 
Theo Kobayashi T.(5) giá trị trung bình hiệu 
quả nhai ở các bệnh nhân trước khi điều trị chỉ 
bằng 46% giá trị trung bình của nhóm đối chứng 
có khớp cắn bình thường. Sau PT hiệu quả nhai 
đã được cải thiện nhiều hơn nhưng vẫn chỉ ở 
mức 60% so với nhóm đối chứng. 
Tình trạng KTDH sau PT 
Bảng 2. Tình trạng KTDH sau PT. 
Triệu chứng ở Khớp Trước PT Sau PT 
Có triệu chứng ở Khớp 6 8 
Không triệu chứng ở Khớp 22 20 
Tổng 28 28 
Trong số 22 bệnh nhân được cắt BSSO trước 
phẫu thuật không có rối loạn khớp thái dương 
hàm, nhưng kiểm tra sau 6 tháng phẫu thuật thì 
có hai bệnh nhân chiếm tỉ lệ 9,5%, phát hiện có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 94
tiếng kêu lụp cụp (khục khớp) ở khớp thái 
dương hàm khi há miệng. Sở dĩ có tình trạng 
này là do thoái hóa KTDH từ sự vặn ép của lực 
đinh vít tại các mặt của hai mảnh xương đặt 
chồng lên nhau khi kết hợp xương, tạo áp lực 
cho lồi cầu trong ổ chảo, hiện tượng này chỉ xảy 
ra khi giữa hai đoạn xương đã cắt hình thành 
một khoảng trống ở vị trí mới, việc cố định các 
mặt cắt của hai mảnh xương sẽ tạo ra một lực 
xoắn làm xoay lồi cầu trong ổ chảo. Để làm mất 
lực xoắn này, ở cơ sở chúng tôi xử dụng nẹp 
titan uốn cong theo hình dạng tự nhiên của 2 
mảnh xương sau khi đặt lại ở vị trí mới, để cố 
định xương. Vì nếu nẹp không uốn theo hình 
dạng của xương thì xương sẽ di chuyển về phía 
nẹp, và khớp cắn sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Còn 
Luhr (trích dẫn theo(3)) thì đề xuất sử dụng một 
dụng cụ định vị để giữ mối liên quan thích hợp 
giữa lồi cầu và ổ chảo. Trong khi Hu J.(2) báo cáo 
sau phẫu thuật thì có 60% các bệnh nhân có 
triệu chứng ở khớp thái dương hàm trước phẫu 
thuật cho biết chức năng của khớp này không 
được cải thiện sau phẫu thuật, và 8% những 
bệnh nhân không triệu chứng trước phẫu thuật 
cho biết có triệu chứng phát sinh sau phẫu thuật 
tác giả kết luận. Pahkala R.H(6) cho biết triệu 
chứng ở KTDH giảm sau phẫu thuật cụ thể: cải 
thiện về khả năng ăn nhai được thông báo 61%, 
40% hết đau ở khớp, tuy nhiên có 12% bệnh 
nhân cho biết tình trạng ở KTDH trở nên tệ hơn 
sau phẫu thuật. Hầu hết bệnh nhân (73%) hài 
lòng với kết quả, không có bệnh nhân nào báo 
cáo là không hài lòng. 
Tình trạng rối loạn cảm giác sau PT 
Bảng 3. Tình trạng rối loạn cảm giác sau PT. 
Thời gian sau PT Số BN Tỉ lệ % 
Ngay sau PT 28 100% 
3 Tháng 20 71,4% 
6 tháng 11 39,3% 
9 tháng 3 10,7% 
12 tháng 0 0 
Hầu hết BN đều có rối loạn cảm giác ở cả 2 
bên ngay sau PT, tình trạng rối loạn giảm dần 
theo thời gian, đến 9 tháng sau PT chỉ còn 3 BN 
có rối loạn nhưng ở mức độ nhẹ hoặc có một số 
bệnh nhân trả lời còn rối loạn nhưng hình như 
cũng thích nghi dần, nếu không để ý thì cảm 
giác như bình thường. Thần kinh cảm giác hồi 
phục hoàn toàn ở thời điểm 12 tháng sau PT. 
Hiện tượng này theo chúng tôi trong quá 
trình bóc tách bộc lộ bề mặt trong ngành lên 
XHD, có thể gây ra nguy cơ tổn thương hoặc 
kéo căng dây thần kinh răng dưới, hoặc hình 
thành khối máu tụ ở vùng phẫu tích. Một 
nguyên nhân khác quan trọng hơn là thần kinh 
răng dưới trực tiếp bị chèn ép giữa hai mảnh 
xương sau khi nẹp vít. Để hạn chế tình trạng 
này của Dautrey cải tiến đường cắt xương nằm 
ngoài ống răng dưới nên thần kinh răng dưới 
không bị chèn ép giữa hai mảnh xương, Cải tiến 
này làm giảm đáng kể biến chứng rối loạn cảm 
giác ở môi dưới. Theo kinh nghiệm của tác giả, 
sự rối loạn thần kinh cảm giác hoặc dị cảm tạm 
thời ở môi dưới 2 đến 3 tháng sau PT và chỉ xuất 
hiện ở 10% số BN, nhưng không BN nào bị mất 
cảm giác vĩnh viễn ở môi dưới. 
Sau PT BSSO, Karas N.D.(4) nhận thấy rằng 
ngay sau phẫu thuật tỉ lệ rối loạn cảm giác là 
70%. Sau 6 tháng cảm giác này có bình phục 
nhưng bình phục một cách chậm rải. 
Kết quả chức năng chung 
Bảng 4. Kết quả phẫu thuật (n=28). 
 Chức năng chung 
Tốt 25 (89,3%) 
TB 3 (10,7%) 
Kém 0 
Tổng 28 
Dựa vào hiệu quả ăn nhai và lực cắn, vận 
động khớp thái dương hàm, dấu hiệu bệnh lý ở 
khớp thái dương hàm, đánh giá ở mốc 9 tháng 
sau PT. 
Về thẩm mỹ sau PT 
Đánh giá kết quả thẩm mỹ 
Bảng 5.Giá trị các số đo TB của biến dạng quá sản 
XHD sau PT (n =28). 
Các số đo nhân trắc Giá trị TB Giá trị BT 
Góc SNB 84,9
0
 80,8
0 
Góc lồi mặt -7,2
0
 -9,28
0
Góc GoGn-SN 33,6
0
 30,07
0 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 95
Các số đo nhân trắc Giá trị TB Giá trị BT 
Chiều dài tầng giữa 
mặt / chiều dài XHD 
1/1,34 1/1,3 
Chiều cao tầng giữa / tầng dưới 
mặt 
1/1,03 1/0,98 
Dựa vào số đo các góc trên phim sọ sau PT, 
dựa vào sự hài hòa của khuôn mặt, dựa vào 
bảng câu hỏi đánh giá dành cho bệnh nhân về 
tiêu chuẩn thẩm mỹ kết quả tỉ lệ này đạt 100%. 
KẾT LUẬN 
Ưu điểm điểm của kỹ thuật BSSO là: tránh 
được sẹo ở da, thời gian cố định liên hàm ngắn. 
Do diện tích mặt tiếp xúc rộng của hai mảnh 
xương xẻ-tách nên đảm bảo được việc liền 
xương nhanh chóng và cho phép thay đổi vị trí 
giữa hai đoạn xương với biên độ rộng và mảnh 
xương có thể di chuyển ra sau (trong trường 
hợp hàm bị nhô ra trước), hoặc ra trước (trong 
trường hợp hàm bị thụt ra sau), và xoay để 
chỉnh sửa lại khi bị lệch sang bên. Chính tính 
linh hoạt này đã làm cho kỹ thuật BSSO trở nên 
phổ biến. Một ưu điểm nữa của kỹ thuật này là 
không có biến đổi đáng kể giữa lồi cầu xương 
hàm dưới trong ổ chảo. Các cơ nhai nhanh 
chóng thích ứng với liên quan giải phẫu và chức 
năng mới hình thành sau phẫu thuật 
Nhược điểm chính của kỹ thuật BSSO là tỷ 
lệ cao các trường hợp bị mất cảm giác ở môi 
dưới. Sau PT BSSO tình trạng rối loạn cảm giác 
xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân. Thần kinh bình 
phục dần theo thời gian 71,4% sau 3 tháng, 
39,3% sau 6 tháng, 10,7% sau 9 tháng và sau 12 
tháng thì xem như bình phục hoàn toàn. 
Nhóm 28 BN được cắt và đặt lùi XHD theo 
kỹ thuật BSSO kết quả ở thời điểm sau 9 tháng 
PT: 89,3% BN xếp loại tốt, 10,7% BN xếp loại 
trung bình, không có loại kém. Làm phát sinh 
thêm triệu chứng KTDH ở 2 BN chiếm tỉ lệ 9,5%. 
Đoạn xương ở phía bên ngoài đường cắt có 
thể bị gãy vụn, nếu ngành lên xương hàm dưới 
mỏng, do đó phải cực kỳ thận trọng khi tiến 
hành cắt xương để tránh biến chứng này. 
Những biến chứng khác của phẫu thuật BSSO 
gồm có: chảy máu, tắc đường hô hấp, hoại tử 
xương hoặc nhiễm khuẩn, và thương tổn dây 
thần kinh mặt. Ngoài ra, giảm cảm giác ở lưỡi 
cũng có thể xảy ra nếu dây thần kinh lưỡi bị 
chấn thương trong khi phẫu tích mặt trong 
ngành lên XHD. 
Phẫu thuật chỉnh sửa xương hàm làm thay 
đổi vị trí giải phẫu của xương hàm, tạo tương 
quan mới giữa 2 cung hàm và tương quan giữa 
xương hàm và khối sọ mặt, tỷ lệ các tầng mặt trở 
về giá trị chuẩn.Khung xương cân đối là nền 
tảng quan trọng cho tính thẩm mỹ của hệ thống 
mô mềm bên trên. Về thẩm mỹ có thể thấy thay 
đổi ngay sau phẫu thuật, hầu hết bệnh nhân và 
gia đình đều hài lòng về kết quả điều trị. Về 
thẩm mỹ 100% BN xếp loại tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Harada K, Kikuchi T., Morishima S., Sato M., Ohkura K., Omura 
K. (2003), "Changes in bite force and dentoskeletal morphology 
in prognathic patients after orthognathic surgery", Oral Surg. 
Oral Med. Oral Pathol. Oral Radiol. Endod, 95 (6), pp. 649-654 
2. Hu J., Wang D., Zou S. (2000), "Effects of mandibular setback on 
the temporomandibular Joint: a comparison of oblique and 
sagittal split ramus osteotomy", J.Oral Maxillofac. Surg, 58 (4), pp. 
375-380. 
3. Joss C.U., Thyer U.W. (2008), "Stability of the hard and soft tissue 
profile after mandibular advancement in sagittal split 
osteotomies: a longitudinal and long-term follow-up study", Eur. 
J. Orthod, 30 (1), pp. 16-23. 
4. Karas N.D., Boyd S.B., Sinn D.P. (1990), "Recovery of 
neurosensory function following orthognathic surgery", J. Oral 
Maxillofac. Surg, 48 (2), pp. 124-134. 
5. Kobayashi T., Honma K., Shingaki S., Nakajima T. (2001), 
"Changes in masticatory function after orthognathic treatment in 
patients with mandibular prognathism", Br. J. Oral Maxillofac. 
Surg, 39 (4), pp. 260-265. 
6. Pahkala R.H., Kellokoski J.K. (2007), "Surgical-orthodontic 
treatment and patients' functional and psychosocial well-being", 
Am. J. Orthod. Dentofacial. Orthop, 132 (2), pp. 158-164.