Mục đích: Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non và mối tương quan giữa tật khúc xạ và cân
nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ có tiền sử sinh non.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 trẻ trong độ tuổi từ 12 tháng – 5 tuổi có tiền sử sinh non được
khám tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh và được xác định khúc xạ bằng phương pháp soi bóng đồng tử có liệt
điều tiết. Thiết kế nghiên cứu mô tả, cắt ngang, không có nhóm chứng.
Kết quả: 44 trẻ với 88 mắt được đo khúc xạ, trong đó tỉ lệ tật khúc xạ là 19 trẻ (43,18%), chính thị là
25 trẻ (56,82%). Chủ yếu tật cận thị chiếm 36,36%, viễn thị 6,82%, loạn thị 47,73%, bất đồng khúc xạ
6,82%. Tuổi trung bình đến khám là 30,68 tháng (≈ 2,5 tuổi); cân nặng trung bình lúc sinh là 1995,45g, và
tuổi thai trung bình lúc sinh la 29,25 tuần. Không tìm thấy mối tương quan giữa cân nặng, tuổi thai lúc
sinh của trẻ với tật khúc xạ.
Kết luận: Tật khúc xạ thường gặp ở trẻ có tiền sử sinh non, chủ yếu tật cận thị. Không tìm thấy mối tương
quan giữa tật khúc xạ với cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 263
KHẢO SÁT ĐẶC TÍNH KHÚC XẠ Ở TRẺ CÓ TIỀN SỬ SINH NON
Mai Phan Hoàng Yến*, Nguyễn Công Kiệt*
TÓM TẮT
Mục đích: Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh non và mối tương quan giữa tật khúc xạ và cân
nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ có tiền sử sinh non.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 trẻ trong độ tuổi từ 12 tháng – 5 tuổi có tiền sử sinh non được
khám tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh và được xác định khúc xạ bằng phương pháp soi bóng đồng tử có liệt
điều tiết. Thiết kế nghiên cứu mô tả, cắt ngang, không có nhóm chứng.
Kết quả: 44 trẻ với 88 mắt được đo khúc xạ, trong đó tỉ lệ tật khúc xạ là 19 trẻ (43,18%), chính thị là
25 trẻ (56,82%). Chủ yếu tật cận thị chiếm 36,36%, viễn thị 6,82%, loạn thị 47,73%, bất đồng khúc xạ
6,82%. Tuổi trung bình đến khám là 30,68 tháng (≈ 2,5 tuổi); cân nặng trung bình lúc sinh là 1995,45g, và
tuổi thai trung bình lúc sinh la 29,25 tuần. Không tìm thấy mối tương quan giữa cân nặng, tuổi thai lúc
sinh của trẻ với tật khúc xạ.
Kết luận: Tật khúc xạ thường gặp ở trẻ có tiền sử sinh non, chủ yếu tật cận thị. Không tìm thấy mối tương
quan giữa tật khúc xạ với cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ.
Từ khóa: Tiền sử sinh non, tật khúc xạ, cận thị, soi bóng đồng tử có liệt điều tiết.
ABSTRACT
REFRACTIVE OUTCOME IN PREMATURE CHILDREN WITHOUT RETINOPATHY OF
PREMATURITY
Mai Phan Hoang Yen, Nguyen Cong Kiet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 263 - 268
Purpose: To determine the incidence of refractive error from the ages of 12 months to 5 years in premature
children without retinopathy of prematurity and also to seek a correlation between refractive error and birth
weight, or gestational age.
Subject and methods: In this observartional cross – sectional study, eye refraction in 44 premature
children, with no ocular pathology, was measured by cycloplegic retionoscopy at the children from the ages of 12
months to 5 years.
Results: Of the 44 children reviewed, 19 (43.18%) had a refractive error and 25 (56.82%) were emmetropic
in both eyes. Most of the children were myopia (36.36%). Hyperopia was observed in 6.82%. Astigmatism was
found in 47.73% of the children. Anisometropia occurred in 6.82% of children in this study. The mean age at
examination was 2.5 years; the mean birth weight was 1995.45g and the mean gestational age at birth was 29.25
weeks. Refractive error was not correlated with birth weight or gestational age in this study.
Conclusions: Significant refractive errors are quite common in the premature children without retinopathy
of prematurity. Most of these children are myopia. There is no correlation between refractive error and birth
weight or gestational age.
Key words: Premature children without retinopathy of prematurity, refractive error, myopia, cycloplegic
retinoscopy.
Bộ Môn Mắt, Đại Học Y Dược Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang
Tác giả liên lạc: BS Mai Phan Hoàng Yến ĐT: 0905190500 Email:maiphanhoangyen@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 264
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển
vượt bậc của các phương tiện chẩn đoán – can
thiệp sớm và kỹ thuật hồi sức sơ sinh tốt đã giúp
làm giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh, đặc biệt đối với
các trẻ sinh non. Y văn thế giới đã ghi nhận
nhiều trẻ sinh non từ 23 tuần thai, cân nặng lúc
sinh từ 500gr được nuôi sống. Song song với
những thành công đó, những thử thách được đặt
ra đối với nền y học hiện đại: các tổn thương,
bệnh lý đặc trưng trên một cơ thể non nớt, chưa
được phát triển hoàn thiện xuất hiện. Đối với cơ
quan thị giác, đó là tổn thương bệnh lý võng mạc
trẻ sinh non (ROP), tật khúc xạ, lé, tổn thương vỏ
não thị giác, chứng loạn sắc, giảm thị lực(6). Tất cả
đều gây hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng sống không chỉ trên bản
thân trẻ ngay cả gia đình trẻ.
Đến nay, do tính chất nghiêm trọng và
những di chứng nặng nề, bệnh lý võng mạc trẻ
sinh non đã được đưa vào chương trình tầm soát
cho trẻ sinh non ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới, bước đầu mang lại hiệu quả khả quan. Bên
cạnh, nguy cơ ROP, những trẻ sinh non, nhẹ cân
không ROP có nguy cơ tật khúc xạ.
Sự liên quan giữa tật khúc xạ và sinh non đã
được thế giới biết tới từ năm 1955 qua các nghiên
cứu của Fletcher và Brandon, và sau đó được
nhiều tác giả khác báo cáo như Alfano (1958),
Graham (1963), Verma (1994). Năm 1997, Fielder
và Quinn mô tả, có ba hình thái cận thị ở trẻ sinh
non: cận thị sinh lý “thoáng qua”, cận thị sinh
non (MOP), cận thị thoái hóa trong ROP. Đây
được xem như luận cứ khoa học đầu tiên về hình
thái cận thị đặc biệt này. Sau đó,các tác giả
Saunders (2002), Ton(2004), Holmstrom (2005),
Larsson (2006) lần lượt công bố, bên cạnh tật cận
thị thường gặp, tật viễn thị, loạn thị chiếm tỉ lệ
khá cao ở nhóm trẻ có tiền sử sinh non. Tại Đông
Nam Á, mối liên quan này cũng được nhiều tác
giả báo cáo như Saw (1997), Theng (2000),
Sharanjeet Kaur (2010). Tuy nhiên, ở Việt Nam
mới chỉ có một số nghiên cứu báo cáo về tật khúc
xạ ở trẻ sinh non có bệnh lý võng mạc.
Do vậy, việc nghiên cứu về đặc tính tật khúc
xạ ở trẻ có tiền sử sinh non không bệnh lý võng
mạc nhằm phát hiện sớm tật khúc xạ, từ đó,
giảm nguy cơ nhược thị, lé do không được điều
chỉnh sớm là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu này nhằm hai mục tiêu:
Khảo sát đặc tính khúc xạ ở trẻ có tiền sử
sinh non.
Xác định mối tương quan giữa tật khúc xạ và
cân nặng, tuổi thai lúc sinh của trẻ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những trẻ có tiền sử sinh non không
bệnh lý võng mạc được khám, đo khúc xạ tại
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh từ tháng
10/2011 – 07/2012.
Trẻ có tiền sử sinh non không bệnh lý võng mạc
được khám và đo khúc xạ khách quan, đồng ý
tham gia nghiên cứu. Loại trừ những trường hợp
trẻ có tiền sử sinh non không bệnh lý võng mạc
nhưng kèm theo các bệnh tại mắt và toàn thân,
chậm phát triển tâm thần – vận động không cho
phép thăm khám và đo khúc xạ khách quan.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu mô tả, cắt ngang, có phân
tích, không có nhóm chứng.
Quy trình nghiên cứu
Giải thích thân nhân của trẻ sự cần thiết và
lợi ích của việc tham gia nghiên cứu.
Phỏng vấn bằng phiếu thu thập số liệu: tất cả
trẻ đủ tiêu chuẩn đều được phỏng vấn bằng
phiếu thu thập số liệu. Phiếu thu thập số liệu
được xây dựng gồm các câu hỏi đóng và mở để
nhằm thu thập thông tin từ thân nhân của trẻ.
Thăm khám:
+ Đánh giá phần trước nhãn cầu: giác mạc,
tiền phòng, mống mắt, thủy tinh thể.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 265
+ Đánh giá phần sau nhãn cầu: võng mạc,
mạch máu, gai thị.
Đo khúc xạ khách quan chưa liệt điều tiết.
Ghi nhận kết quả sơ bộ.
Nhỏ thuốc liệt điều tiết Mydrin P 0,5% 3 lần,
cách nhau 5 – 10 phút, khám khúc xạ khách quan
sẽ được thực hiện sau lần nhỏ thuốc cuối cùng
khoảng 30 – 45 phút.
Đánh giá tình trạng tật khúc xạ: giá trị tật
khúc xạ được xác định bằng giá trị độ khúc xạ
cầu tương đương (Spherical Equavilent: SE).
Độ khúc xạ cầu tương đương = độ cầu + 1 / 2
độ loạn.
+ Xác định là cận thị nếu độ khúc xạ cầu
tương đương ≤ - 0,50D, viễn thị nếu độ khúc
xạ cầu tương đương ≥ + 2,00D, chính thị nếu
độ khúc xạ cầu tương đương lớn hơn – 0,50D
và nhỏ hơn + 2,00D, cận thị nặng nếu độ khúc
xạ cầu tương đương ≤ - 3,00D, cận thị nhẹ nếu
độ khúc xạ cầu tương đương lớn hơn - 3,00D
nhưng nhỏ hơn – 0,50D. Độ loạn thị được tính
nếu giá trị loạn thị ≥ 0,75D. Bất đồng khúc xạ
được xác định khi chênh lệch độ khúc xạ giữa
hai mắt ≥ 1,00D.
+ Trẻ được xem là cận thị nếu một mắt cận
thị hay cả hai mắt bị cận thị.
+ Trẻ được xem là viễn thị nếu cả hai mắt
viễn thị hay một mắt viễn thị và mắt kia chính
thị.
+ Trẻ được xem là chính thị nếu không có
mắt nào cận hay viễn thị.
Thống kê, xử lý số liệu
Nhập, xử lý và phân tích số liệu bằng phần
mềm SPSS for Window 16.0. Biến số định lượng
được trình bày bằng số trung bình ± độ lệch
chuẩn. Mối liên quan giữa hai biến định lượng
được kiểm định bằng Student test. Mối tương
quan giữa tật khúc xạ và các biến định lượng
khác được khảo sát với hệ số tương quan
Pearson và điều chỉnh với phân phối Poison
nhằm tìm chỉ số nguy cơ (RR = Relative Risk).
Các test có ý nghĩa thống kệ khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Chúng tôi tiến hành khám, đo khúc xạ
khách quan cho 44 trẻ với 88 mắt, trong đó, 24
nữ (54,54%) và 20 nam (45,46%). Giới nữ có tỉ
lệ cao hơn nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p = 0,55). Các biến số tuổi đến
khám, cân nặng lúc sinh, tuổi thai lúc sinh, độ
khúc xạ cầu tương đương ở mỗi mắt được mô
tả ở bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm thống kê của trẻ có tiền sử sinh non trong nghiên cứu.
Tuổi đến khám
(tuổi)
Cân nặng lúc
sinh(g)
Tuổi thai lúc
sinh(tuần)
Độ khúc xạ cầu tương
đương mắt phải (D)
Độ khúc xạ cầu tương
đương mắt trái (D)
Trung bình 2,5 1995,45 29,52 - 0,29 - 0,28
Nhỏ nhất 1 1600 25 - 4,38 - 4,38
Lớn nhất 5 2500 34 + 2,88 + 3,13
Để nghiên cứu có tính đồng nhất, chúng tôi
tiến hành khảo sát mối tương quan độ khúc xạ
cầu tương đương (SE) giữa hai mắt trên cùng
một trẻ, nhận thấy có mối tương quan thuận,
chặt nhưng không có ý nghĩa thống kê (R = 0,87;
p = 0,903) nên chọn mắt phải ở mỗi trẻ để đánh
giá tình trạng tật khúc xạ.Trong tổng số 44 trẻ, tật
khúc xạ chiếm 43,18%, chính thị có tỉ lệ 56,82%.
Tỉ lệ cận thị là 36,36%, trong đó cận thị trên –
2,00D chiếm 9,09% và trên – 3,00D là 6,82%; viễn
thị ≥ +2,00D chiếm 6,82%. Bất đồng khúc xạ trong
nghiên cứu có tỉ lệ 6,82% (bảng 2).
Bảng 2. Sự phân bố các loại tật khúc xạ của trẻ trong
nghiên cứu.
Tật khúc xạ Số trẻ (%)
Chính thị 25 (56,82)
Cận thị
Cận thị < - 0,50D
Cận thị< -2,00D
Cận thị < -3,00D
9 (20,45)
4 (9,09)
3 (6,82)
Viễn thị 3 (6,82)
Bất đồng khúc xạ
SE hai mắt chênh nhau trên 1,00D
SE hai mắt chênh nhau trên 2,00D
3(6,82)
1 (5%)
2 (11%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 266
Loạn thị chiếm 38,6% ở mắt phải, và mắt trái
với tỉ lệ 54,55%. Độ loạn thị trung bình là - 0,71±
0,76D ở mắt phải, và – 0,89 ± 0,86D ở mắt trái.
Ngoài ra, với R = 0,81, chứng tỏ giữa độ loạn thị
giữa hai mắt trên cùng một trẻ có mối tương
quan cao với nhau và có mối liên hệ thuận. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p =0,019 <
0,05. Ngoài ra, khảo sát loạn thị mắt phải và mắt
trái với các yếu tố: phân tích đa biến cho thấy sự
khác biệt giữa loạn thị mắt phải và mắt trái
không có ý nghĩa thống kê ở giới tính (p = 0,14 ở
mắt phải và p = 0,39 ở mắt trái) và tuổi đến khám
(p = 0,82 ở mắt phải, p = 0,61 ở mắt trái).
Mối tương quan nghịch, yếu (R = - 0,014)
giữa độ khúc xạ cầu tương đương với cân nặng
lúc sinh. Hơn nữa, khi điều chỉnh với phân phối
Poison bằng cách xác định yếu tố nguy cơ (RR)
khi phân nhóm trẻ trong nghiên cứu dựa theo
cân nặng lúc sinh và tật khúc xạ, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (bảng 3).
Bảng 3. Yếu tố cân nặng lúc sinh và tật khúc xạ của
trẻ trong nghiên cứu.
Mối tương quan thuận, yếu (R = 0,01) giữa
độ khúc xạ cầu tương đương và tuổi thai lúc
sinh. Ngoài ra, khi điều chỉnh với phân phối
Poison bằng cách xác định yếu tố nguy cơ (RR)
khi phân nhóm trẻ trong nghiên cứu dựa theo
tuổi thai lúc sinh và tật khúc xạ, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (bảng 4).
Bảng 4. Yếu tố tuổi thai lúc sinh và tật khúc xạ của
trẻ trong nghiên cứu.
Tuổi thai lúc sinh (tuần) Tật khúc
xạ 24 – 27 28 – 31 32 – 34
RR
(Chỉ số
nguy cơ)
P
Cận thị
Có 0 14 2
Không 4 20 4
0,078
0,78
Viễn thị
Có 0 3 0
Không 4 31 6
0,003
0,955
Loạn thị
Có 0 13 4
Không 4 21 2
0,487
0,485
BÀN LUẬN
Khi mới sinh, hệ thống thị giác của trẻ chưa
hoàn thiện và tiếp tục phát triển trong những
năm đầu đời. Sinh non có thể ảnh hưởng đến sự
phát triển của nhãn cầu hay quá trình chính thị
hóa của trẻ dẫn đến tật khúc xạ(7). Những nghiên
cứu đầu tiên về tật khúc xạ ở trẻ có tiền sử sinh
non được thế giới biết đến vào những năm thập
niên 1950 qua nghiên cứu của Fletcher và
Brandon. Cận thị được xem như một trong
những tật khúc xạ thường gặp nhất ở trẻ có tiền
sử sinh non. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có
16/44 (36,36%) mắt được ghi nhận cận thị ở
nhóm trẻ từ 12 tháng tuổi đến 5 tuổi. Trẻ cận thị
trên 2,00D có tỉ lệ 9,09% và trên 3,00D chiếm
6,82% (bảng 2). Kết quả của chúng tôi tương
đương với tác giả Kim là 36%(3), Saw là 25,9%(8),
Srinivasan là 33%(9). Kết quả của chúng tôi cao
hơn so với các nghiên cứu của Holmstrom là
6%(2), Larsson là 6,8%(5), O’Connor là 16,7%(6).
Điều này có thể giải thích được do sự khác nhau
trong đặc điểm dịch tễ và phương pháp nghiên
cứu. Trong nghiên cứu của Holmstrom, cách xác
định tật cận thị khi SE trên -1,00D. Tác giả
Larsson và O’Connor có cùng xác định tật cận thị
với nghiên cứu của chúng tôi nhưng đặc điểm
dân số Châu Âu khác với Châu Á, nơi có tỉ lệ cận
thị thấp.
Có ba hình thái cận thị ở trẻ sinh non được
báo cáo trong nhiều công trình nghiên cứu
trước đây (cận thị sinh lý “thoáng qua”, cận
Cân nặng lúc sinh (g) Tật khúc xạ
Dưới
2000g
2000g -
2500g
RR (chỉ số
nguy cơ)
p
Cận thị
Có 5 11
Không 14 14
1,509 0,219
Viễn thị
Có 0 3
Không 19 22
2,591 0,107
Loạn thị
Có 5 12
Không 14 13
0,334 0,536
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 267
thị sinh non, và cận thị thoái hóa trong ROP).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khảo sát hình
thái cận thị sinh non không bệnh lý võng mạc.
Đây là hình thái cận thị do ngừng phát triển
của phần trước nhãn cầu ở nhóm trẻ sinh non
không bệnh lý võng mạc. Tỉ lệ cận thị trên –
3,00D chiếm 6,82% trong nghiên cứu, phần
nào khẳng định ảnh hưởng của yếu tố sinh
non lên quá trình chính thị hóa ở trẻ. Kết luận
này phù hợp với nhận định của tác giả
Larsson(5) và Saunders(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ viễn
thị là 6,82% (bảng 2). Điều này, cho thấy quá
trình chính thị hóa bị ảnh hưởng ở trẻ có tiền
sử sinh non, không chỉ dẫn đến cận thị, còn có
thể viễn thị. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
xác định tật viễn thị khi SE (độ khúc xạ cầu
tương đương) lớn hơn + 2,00D bao gồm cả
viễn thị tiềm ẩn. Chính điều này, tránh được
việc viết đơn kính điều chỉnh không cần thiết
và không chính xác ở trẻ. Nếu trẻ được đeo
kính điều chỉnh không đúng sẽ dẫn đến hậu
quả mắt trẻ phát triển lệch lạc như lé, tật khúc
xạ nặng hơn.
Các nghiên cứu trước đây về tật khúc xạ
thường gộp tật loạn thị vào tật khúc xạ hình
cầu (viễn, cận thị). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi tách riêng tật loạn thị và nhận thấy
tật loạn thị ở hai mắt có sự khác biệt rõ, và có ý
nghĩa thống kê (p= 0,019). Sự khác biệt này có
thể giải thích do rối loạn phát triển trong quá
trình chính thị hóa ở trẻ có tiền sử sinh non.
Sự rối loạn này bao gồm những thay đổi ở trục
nhãn cầu, gia tăng độ cong giác mạc, độ sâu
tiền phòng và độ dày của thủy tinh thể. Khúc
xạ trong loạn thị phức tạp hơn so với khúc xạ
trong cận thị, viễn thị đơn thuần, do trong
loạn thị, khúc xạ phải theo hai trục với hai tiêu
khác nhau. Do đó, Dobson và cộng sự, khẳng
định tầm quan trọng trong việc phát hiện tật
loạn thị sớm và viết đơn kinh đúng để ngăn
ngừa nhược thị(1).
Tỉ lệ bất đồng khúc xạ trong nghiên cứu
của chúng tôi là 6,82% (bảng 2). Kết quả
nghiên cứu tương đương với các tác giả
Saunders là 7,7%(7) và Larsson là 6,2%(5).
Ngưỡng SE hai mắt chênh nhau trên 1,50D ở
trẻ dưới 5 tuổi, chúng tôi khuyến khích trẻ đeo
kính điều chỉnh sớm, khởi đầu điều trị bao
gồm cho trẻ đeo kính từ 4 – 6 tuần, sau đó
đánh giá lại thị lực trước khi chỉ định các
phương pháp điều trị phụ trợ(4).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không
tìm thấy mối tương quan giữa tật khúc xạ với
cân nặng lúc sinh (bảng 3). Kết luận này phù
hợp với tác giả Saw(8), Ton(10). Nhưng trong
một số nghiên cứu, cho rằng, tật khúc xạ và
cân nặng lúc sinh có mối tương quan nghịch.
Những trẻ càng nhẹ cân, càng có nguy cơ phát
triển thị giác bất thường từ mắt đến vỏ não thị
giác, ảnh hưởng thần kinh trung ương và
ngoại vi. Ngược lại cũng có những công trình
đưa ra nhận định, những trẻ nhẹ cân thường
kèm bệnh lý toàn thân, chính vì vậy, rất khó
để xác định yếu tố nhẹ cân gây tổn thương tại
mắt, hay chính bệnh lý toàn thân ảnh hưởng
trực tiếp lên cơ quan thị giác.
Tương tự, chúng tôi cũng không tìm thấy
mối tương quan giữa tật khúc xạ với tuổi thai
lúc sinh (bảng 4). Kết luận này phù hợp tác giả
Saw(8), Ton(10). Tuy nhiên, theo một số y văn
cho rằng, tuổi thai càng ngắn, tỉ lệ cận thị càng
cao. Trong một nghiên cứu của tác giả Ricci và
cộng sự (1999), ông tìm thấy mối tương quan
giữa tật khúc xạ với tuổi thai lúc sinh, đặc biệt
cận thị trên – 3,00D ở trẻ có tuổi thai lúc sinh
từ 26 – 28 tuần tuổi. Vì vậy, mối tương quan
này vẫn còn nhiều bàn cãi, sẽ là hướng để tiếp
tục nghiên cứu trong tương lai với cỡ mẫu lớn
và kết hợp đa trung tâm.
KẾT LUẬN
Tật khúc xạ thường gặp ở nhóm trẻ có tiền
sử sinh non không bệnh lý võng mạc, chủ yếu
tật cận thị. Đây là cơ sở cho thấy rõ tầm quan
trọng của việc tầm soát khúc xạ ở nhóm trẻ
này, phát hiện sớm và điều trị sớm sẽ giảm bớt
gánh nặng cho gia đình.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 268
Không tìm thấy mối tương quan giữa tật khúc
xạ và cân nặng lúc sinh, hay tuổi thai lúc sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dobson V, Miller J, et al. (2003). "Amblyopia in astigmatic
preschool children."Vision Res, 43, pp.1081-1090.
2. Holmstrom GE and Larsson EK (2005). "Developmemt of
Spherical Equivalent Refraction in Prematurely Born Children
During the Fisrt 10 years of Life." Arch Ophthalmology, 123,
pp.1404-1411.
3. Kim JY, Kwak SI, et al. (1992). "Myopia in premature infants at
the age 6 months." Korean J Ophthalmol, 6, pp.44-49.
4. Larsson EK and Holmstrom GE (2006). "Development of
Astigmatism and Anisometropia in Preterm Children During
the First 10 Years of Life." Arch Ophthalmology, 124, pp.1608-
1614.
5. Larsson EK, Rydberg AC, et al. (2003). "A population - based
study of Refractive Outcome in 10 - Year - Old Preterm and
Full - term Children." Arch Ophthalmology, 121, pp.1430-1436.
6. O'Connor AR, Stephenson T, et al. (2002). "Long - term
ophthalmologic outcome of low birth weight children with and
without retinopathy of prematurity." Pediatrics, 109, pp.12-18.
7. Saunders KJ, McCulloch DL, et al. (2002). "Emmetropisation
following preterm birth." Br J Ophthalmol, 86, pp.1035-1040.
8. Saw SM and Chew SJ (1997). "Myopia in children born
premature or with low birth weight." Acta Ophthalmol
Scandinavica, 75, pp.548-550.
9. Srinivasan R, Agarwal, et al. (2009). "Refractive outcome in
Preterm and Term Infants." AIOC 2009 Proceedings, pp.381-383.
10. Ton Y, Wysenbeek YS, et al. (2004). "Refractive Error in
Premature Infants." Journal of the American Association for
Pediatric Ophthalmology and Strabimus, 8, pp.534-538.