Mục đích: Những thay đổi lớn trong cuộc sống là những yếu tố có ý nghĩa gây nên tâm trạng lo âu hay
trầm cảm. Mục đích nghiên cứu này là khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm của những bệnh nhân được chẩn
đoán có bệnh lý chờ lịch mổ của khoa Ngoại thần kinh. Ngoài ra, các yếu tố dự báo của lo âu trước mổ cũng
được phân tích.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang của 313 bệnh nhân bệnh lý chờ mổ theo lịch tại
khoa Ngoại thần kinh ‐ bệnh viện Chợ Rẫy. Dữ liệu thu thập dưới dạng câu hỏi bao gồm các biến về xã hội dịch
tễ, các nhu cầu thông tin cần biết của người bệnh và bộ câu hỏi HADS khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm. Yếu
tố tin cậy nội tại của các câu hỏi được kiểm tra. Các phương pháp thống kê phi tham số được sử dụng để tìm
kiếm mối liên hệ tác động giữa các biến.
Kết quả: Kết quả trong nghiên cứu cho thấy tổng trung bình của khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm là 7,14
± 3,58 và 6,75 ± 3,82, tương ứng. Trong mẫu nghiên cứu có 17,89% bệnh nhân có trạng thái lo âu với tổng điểm
lo âu (HADS‐A) ≥ 11 và 17,57% bệnh nhân có trạng thái trầm cảm với tổng điểm trầm cảm (HADS‐D) ≥ 11.
Phân tích cho thấy, nữ giới có mức độ lo âu cao hơn nam giới (P,0,05); bệnh nhân có những đòi hỏi về thông tin
tư vấn có mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy có một thực tại tình trạng lo âu và trầm cảm ở bênh nhân trước mổ mà điều
này chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố. Nhận định, tư vấn và hổ trợ điều trị tâm trạng lo âu và trầm cảm trước
mổ của bệnh nhân là cần thiết.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mức độ lo âu trước mổ bệnh nhân khoa ngoại thần kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 84
KHẢO SÁT MỨC ĐỘ LO ÂU TRƯỚC MỔ
BỆNH NHÂN KHOA NGOẠI THẦN KINH
Huỳnh Lê Phương*, Phan Thị Diễm Kiều*, Lê Thị Vẹn*, Tô Huỳnh Minh Tâm*, Nguyễn Thị Thu*
TÓM TẮT
Mục đích: Những thay đổi lớn trong cuộc sống là những yếu tố có ý nghĩa gây nên tâm trạng lo âu hay
trầm cảm. Mục đích nghiên cứu này là khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm của những bệnh nhân được chẩn
đoán có bệnh lý chờ lịch mổ của khoa Ngoại thần kinh. Ngoài ra, các yếu tố dự báo của lo âu trước mổ cũng
được phân tích.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang của 313 bệnh nhân bệnh lý chờ mổ theo lịch tại
khoa Ngoại thần kinh ‐ bệnh viện Chợ Rẫy. Dữ liệu thu thập dưới dạng câu hỏi bao gồm các biến về xã hội dịch
tễ, các nhu cầu thông tin cần biết của người bệnh và bộ câu hỏi HADS khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm. Yếu
tố tin cậy nội tại của các câu hỏi được kiểm tra. Các phương pháp thống kê phi tham số được sử dụng để tìm
kiếm mối liên hệ tác động giữa các biến.
Kết quả: Kết quả trong nghiên cứu cho thấy tổng trung bình của khảo sát mức độ lo âu và trầm cảm là 7,14
± 3,58 và 6,75 ± 3,82, tương ứng. Trong mẫu nghiên cứu có 17,89% bệnh nhân có trạng thái lo âu với tổng điểm
lo âu (HADS‐A) ≥ 11 và 17,57% bệnh nhân có trạng thái trầm cảm với tổng điểm trầm cảm (HADS‐D) ≥ 11.
Phân tích cho thấy, nữ giới có mức độ lo âu cao hơn nam giới (P,0,05); bệnh nhân có những đòi hỏi về thông tin
tư vấn có mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy có một thực tại tình trạng lo âu và trầm cảm ở bênh nhân trước mổ mà điều
này chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố. Nhận định, tư vấn và hổ trợ điều trị tâm trạng lo âu và trầm cảm trước
mổ của bệnh nhân là cần thiết.
Từ khóa: Lo âu; Trầm cảm; Bệnh nhân trước mổ.
ABSTRACT
EVALUATE THE PREOPERATIVE AXIETY IN NEUROSURGICAL PATIENTS
Huynh Le Phuong, Phan Thi Diem Kieu; Le Thi Ven; To Huynh Minh Tam; Nguyen Thi Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 84 ‐ 89
Background & Purpose: Major life changes are significant factors that cause anxiety and depression. The
aims of the present study were to identify and quantify the levels of preoperative anxiety and depression in
patients undergoing elective surgery in a neurosurgical department. In addition, predictors of preoperative
anxiety were studied in surgical patients.
Methods: This is a descriptive cross section study that includes 313 patients in a neurosurgical department.
As the data‐gathering tools, a questionnaire form including the demographic variables, the desire information
variables and anxiety / depression disorder with the Hospital Anxiety and Depression Scale (HADS) were used.
The internal consistency was checked using Cronbach’s alpha. Statistical analyses were performed finding the
relationship as well as predictors of variables.
Results: The mean HADS‐A (anxiety) score of patients was 7.14 ± 3.58, and the mean HADS‐D
* Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. BS. Huỳnh Lê Phương ĐT: 0909225188 Email: phuongsds@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 85
(depression) was 6.75 ± 3.82. Among the patients in this study, 29.71% had an anxiety disorder (HADS‐A score
of ≥ 9) whereas the 34.18% showed depression (HADS‐D score of ≥ 9). Moreover, the result demonstrated that:
Females were more anxious than males (P <0.05); The patients with a high information requirement also had a
high level of anxiety and depression.
Conclusion: The results of this study showed that the preoperative anxiety and depression of patients
awaiting surgery was associated with demographic characteristics as well as social support resources. Result
indicates that support, counseling, and routine screening for anxiety and depression should be provided to
inpatients.
Keywords: Anxiety; Depression; Preoperative selective patient.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự lo âu hay trầm cảm thường thấy ở bệnh
nhân nội trú, đặc biệt ở những khoa ngoại nơi có
bệnh nhân chờ mổ. Thật vậy, thời gian nằm viện
đối với người bệnh thông thường có những sự
việc, thông tin chẩn đoán hay diễn biến phải trải
qua mang đầy tính yếu tố gây căng thẳng ở
người bệnh. Ngoài những yếu tố về thực thể
bệnh lý gây đau đớn về thể xác, các bước xét
nghiệm xâm lấn, còn có những xáo trộn về tâm
lý như những suy nghĩ về bệnh tật, di chứng
điều trị, đảo lộn cuộc sống hay thái độ nhân viên
y tế, môi trường xa lạ phòng bệnh cũng thường
gây ra những múc độ lo âu hay trầm cảm ở bệnh
nhân nội trú(1,7,8,10).
Do đó, trong công tác chăm sóc sức khỏe và
điều trị bệnh nhân nội trú tại các bệnh viện
ngoài việc kiện toàn tối ưu trong điều trị chuyên
môn, nhân viên y tế bác sĩ cũng như điều dưỡng
không thể bỏ qua việc đánh giá mức độ lo âu và
trầm cảm của bệnh nhân để cung cấp những tư
vấn đúng lúc, đầy đủ hay trợ giúp điều trị khi
cần thiết(7).
Trong y văn thế giới, đã có nhiều nghiên
cứu, khảo sát về mức độ lo âu cũng như trầm
cảm của người bệnh nội trú, rải rác các chuyên
khoa trong đó bệnh nhân ngoại thần kinh không
là ngoại lệ (6,11). Với nhiều công cụ khảo sát đánh
giá mức độ lo âu và trầm cảm được công nhận
và sử dụng rộng rãi, một số nghiên cứu này đi
sâu đối tượng bệnh nhân đang chờ trước mổ, chỉ
ra những mức độ lo âu và trầm cảm cũng như
các yếu tố nguyên nhân hay hậu quả tác
hại(8,10,12,13).
Tại Việt Nam, có vài công trình riêng lẻ khảo
sát về vấn đề tâm lý xã hội nhưng tập trung vào
khía cạnh dương tính biểu hiện bởi mức độ hài
lòng hay thỏa mãn(2). Khoa Ngoại thần kinh,
bệnh viện Chợ Rẫy với thuận lợi về cơ sở vật
chất và là tuyến cuối phục vụ cho phía Nam đất
nước, lượng bệnh đa dạng và phong phú, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm khảo sát tình
trạng về mức độ lo âu hay trầm cảm của bệnh
nhân trước lúc chờ mổ chương trình; qua đó
phân tích nhận định có hay không những yếu tố
hay nguyên nhân thúc đẩy liên quan đến mức
độ lo âu của bệnh nhân nhằm nâng cao chất
lượng trong công tác điều trị.
ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả có 382 bệnh nhân (BN) tại khoa Ngoại
thần kinh, bệnh viện Chợ Rẫy từ 15/12/2012 đến
15/1/2013 đồng ý tham gia khảo sát.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Tất cả BN tham gia
khảo sát đều thỏa các điều kiện sau: tự nguyện;
biết đọc viết; đã được chẩn đoán và đang chờ
lịch mổ chương trình; tuổi > 18.
Tiêu chuẩn loại trừ: BN giảm tri giác, mất ý
thức do bệnh lý; không hợp tác hoàn toàn.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Phương tiện và cách thức nghiên cứu
Bảng câu hỏi tự trả lời bao gồm các câu hỏi
được thiết kế về các yếu tố xã hội ‐ dịch tễ, và
nhóm câu hỏi đánh giá mức độ lo âu và trầm
cảm của bệnh nhân theo mẫu HADS (Hospital
Anxiety Depression Scale) được đề xuất bởi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 86
Zigmond và Snaith và sau đó được áp dụng
rộng rãi trong các nghiên cứu trên thế giới. Mẫu
các câu hỏi tự trả lời HADS bao gồm 2 phần với
mỗi phần có 7 câu hỏi để đo lường về mức độ lo
âu và trầm cảm của người bệnh (được xem
HADS‐A như phần đánh giá mức độ lo âu và
HADS‐D đánh giá mức độ trầm cảm. Mỗi phần
có tổng điểm từ 0 ‐ 21. Ý nghĩa giá trị khoảng
điểm đã được tính như sau: < 6: bình thường; 7 –
8: có thể có; 10‐11 có lẽ gần như có; ≥ 11: có rõ
ràng. Trong nghiên cứu, hệ số tin tưởng nội tại
Cronbach’s Alpha của các câu hỏi cho mỗi phần
lo âu và trầm cảm là > 0,70.
Các bảng khào sát được tập hợp và nhập
các biến được mã hóa bằng phần mềm SPSS.
Sau đó sử lý và phân tích số liệu bằng các
phép thống kê.
Nội dung nghiên cứu
Khảo sát
Các biến số dịch tễ xã hội: giới, tuổi, trình độ
học vấn, nghề, mức sống, gia đình.
Các biến số dịch tễ về bệnh lý: tiền sử bệnh,
loại bệnh lý.
Các biến số quan hệ: thông tin giao tiếp; cuộc
mổ và tài chính.
Các biến số của bảng câu hỏi HADS (7 câu
HADS‐A và 7 câu HADS‐D).
Nhận định các liên hệ khác biệt về phân phối
giữa các biến số qua phân tích thống kê Mann‐
Whitney và Kruskal‐Wallis với kết quả xem xét
có ý nghĩa khi P < 0,05.
KẾT QUẢ
Với 382 phiếu câu hỏi khảo sát, sau khi loại
bỏ 69 phiếu vì không được trả lời đầy đủ các câu
hỏi, chúng tôi có 313 phiếu dữ liệu thông tin để
đưa vào xử lý. Một số phân tích được phân loại
như sau:
Đặc điểm dịch tễ ‐ xã hội
Giới
Trong mẫu của nghiên cứu có tỉ lệ nam nữ
như sau: Nam 125 (39,9%) và Nữ 188 (60,1%). Vì
đây là mẫu ngẫu nhiên cắt ngang, chúng tôi
dùng phép thống kê Mann‐Whitney U‐test để
kiểm chứng sự ảnh hưởng của yếu tố phái đối
với các biến số cần khảo sát.
Các biến số khảo sát dịch tễ ‐ xã hội
Bảng 1: Các biến dịch tễ xã hội học và thang điểm
HADS.
Biến Số ca (%) Điểm Mean HADS
Lo âu (X ±
SD)
Trầm cảm (X ±
SD)
Mẫu 313 (100) 7,14 ± 3,58 6,75 ± 3,82
Giới Nam 125 (39,9) 5,76 ± 4,20 6,86 ± 4,34
Nữ 188 (60,1) 7,21 ± 3,57 6,67 ± 3,45
U, P=0,01 <
0,05
U, P > 0,05
Tuổi 15-20 28 (8,9) 6,68 ± 4,09 7,50 ± 3,58
21-30 44 (14,1) 7,64 ± 3,52 5,77 ± 3,97
31-40 49 (15,7) 6,65 ± 3,98 5,63 ± 4,05
41-50 87 (27,8) 7,23 ± 3,81 7,64 ± 3,50
51-60 59 (18,8) 7,03 ± 3,30 6,88 ± 3,78
61-70 32(10,2) 7,34 ± 2,95 6,68 ± 3,82
>70 14 (4,5) 7,79 ± 2,42 6,57 ± 3,98
KW, P > 0,05 KW, P=0,024 <
0,05
Hôn nhân
Có gia đình 257 (82,1) 6,39 ± 3,73 5,57 ± 3,60
Đã li dị 3 (1) 10,67 ± 3,06 8,53 ± 6,11
Độc thân 53 (16,9) 6,23 ± 4,35 4,98 ± 3,00
KW, P > 0,05 KW, P > 0,05
Giáo dục
Cấp 1 111 (35,5) 7,10 (3,31) 6,83 (3,31)
Cấp 2 108 (34,5) 7,55 (3,67) 7,20 (3,67)
Cấp 3 45 (14,4) 7,24 (3,43) 7,27 (3,43)
TC 25 (8,0) 7,00 (4,59) 5,40 (4,59)
ĐH 24 (7,7) 5,54 (3,39) 4,71 (3,39)
KW, P > 0,05 KW, P = 0,02 <
0,05
Thu nhập
Khó khăn 106 (63,6) 7,66 (3,84) 7,11 (4,08)
Đủ sống 199 (33,9) 6,93 (3,43) 6,62 (3,63)
Dư giả 8 (2,6) 5,75 (3,45) 4,88 (4,76)
KW, P > 0,05 KW, P > 0,05
Nghề nghiệp KW, P > 0,05 KW, P > 0,05
Vùng địa
phương
KW, P > 0,05 KW, P > 0,05
HADS: Hospital anxiety depression scale; U: Mann‐
Whitney U test; KW: Kruskall‐Wallis test. P < 0,05.
Bảng 2: Các biến liên quan bệnh lý và thông tin.
Biến Số ca (%) Điểm Mean HADS
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 87
Lo âu
(A ± SD)
Trầm cảm
(D ± SD)
Loại bệnh
Não 151 (48,2) 7,28 ± 3,73 6,62 ± 3,45
Cột sống 137 (43,8) 7,28 ± 3,47 6,93 ± 4,08
Dị dạng M/M 18 (5,8) 5,67 ± 2,77 6,56 ± 4,37
Khác 7 (2,2) 5,57 ± 3,82 6,59 ± 5,31
KW, P > 0,05 KW, P > 0,05
Thông tin tư vấn
Đã biết đủ 133
(42,49)
6,94 ± 3,34 6,65 ± 3,73
Muốn biết thêm 127
(40,57)
7,86 ± 4,02 7,07 ± 3,83
Không cần biết 51 (16,29) 5,80 ± 2,70 5,96 ± 4,05
Chưa biết gì 2 (0,63) 8,50 ± 0,71 9,01 ± 4,24
KW, P = 0,01
< 0,05
KW, P > 0,05
Thông tin cuộc mổ
Kết quả cuộc mổ 130 (41,5) 6,81 ± 3,89 6,40 ± 3,77
Di chứng cuộc
mổ
53 (16,9) 6,75 ± 4,18 4,77 ± 3,06
Không cần biết 103 (32,9) 5,64 ± 3,63 4,60 ± 3,18
KW, P = 0,05
≤ 0,05
KW, P = 0,001
< 0,05
Thông tin tài chính
Muốn biết để lo
liệu
97 (30,99) 7,93 ± 3,65 7,29 ± 3,76
Muốn biết vì lo
sợ không lo nổi
50 (15,97) 7,82 ± 3,76 7,52 ± 4,20
Không đáng lo 166
(53,03)
6,50 ± 3,39 6,20 ± 3,68
KW, P = 0,004
< 0,05
KW, P = 0,04 <
0,05
HADS: Hospital anxiety depression scale; U: Mann‐
Whitney U test; KW: Kruskall‐Wallis test. P < 0,05.
Bảng 3: Tỉ lệ bệnh nhân theo mức điểm HADS đánh
giá lo âu và trầm cảm.
Tổng điểm cá nhân theo
mức khoảng điểm
Số BN (%)
HADS – A HADS - D
≤ 6 139 (44,40) 114 (36,40)
7 ~ 8 81 (25,87) 62 (19,80)
9 ~ 10 37 (11,82) 52 (16,61)
≥ 11 56 (17,89) 55 (17,57)
BÀN LUẬN
Thực tế, trong y văn thế giới đã có nhiều báo
cáo nghiên cứu về tâm trạng, trạng thái tâm lý lo
âu cũng như trầm cảm của người bệnh trước mổ
bằng những phương tiện thu nhận số liệu khác
nhau qua các dạng câu hỏi(3,6,7,8,11,12). Tuy nhiên,
trong những dạng thức các câu hỏi để đánh giá
tâm trạng lo âu và tình trạng trầm cảm của bệnh
nhân trước mổ, chúng tôi chọn mẫu câu hỏi
HADS do Zidmond(13) đề xuất để sử dụng trong
nghiên cứu này. Bởi lẽ, đây là mẫu dùng đánh
giá tâm trạng lo âu và tình trạng trầm cảm của
bệnh nhân không tâm thần, được nhiều trung
tâm bệnh viện trên thế giới sử dụng vì ngắn gọn,
dễ thực hiện trong các trường hợp bệnh nhân
ngoại khoa. Thêm nữa, các câu hỏi thiết kế đã
loại trừ sự ảnh hưởng do các yếu tố triệu chứng
thực thể của bệnh gây ra (đau đớn, chóng mặt
v.v), chỉ tập trung khảo sát vào trạng thái, cảm
xúc và tâm lý do tác động bởi các yếu tố thông
tin nằm viện(6, 8).
Trong nghiên cứu này với phương pháp thu
thập dữ liệu bằng một nhóm câu hỏi tự trả lời
dạng Likert scale để đo một biến (variable),
chúng tôi đã dùng phép kiểm hệ số tin cậy nội
tại Cronbach’s alpha để kiểm chứng giá trị xác
thực dữ liệu thu được. Bằng phép thông kê
trong phần mềm SPSS, chúng tôi tính toán được
với nhóm HADS‐A, hệ số tin cậy nội tại
Cronbach’s alpha đạt 0,79 và nhóm HADS‐D
Cronbach’s alpha đạt 0,75. Điều này cho thấy độ
tin cậy của số liệu qua phương tiện nghiên cứu
chúng tôi dùng đạt chuẩn tin cậy (12, 13).
Theo kết quả trong nghiên cứu (bảng 1),
tổng trung bình của khảo sát mức độ lo âu và
trầm cảm là 7,14 ± 3,58 và 6,75 ± 3,82, tương ứng.
Mặc dù, theo ngưỡng đánh giá của mẫu câu hỏi
HADS (phần phương pháp) nhìn chung trị tổng
trung bình mức độ lo âu và trầm cảm của mẫu
nghiên cứu nằm trong mức độ chưa đáng báo
động. Tuy nhiên, nếu xét số cá thể có tổng điểm
cá nhân của mức độ lo âu và trầm cảm theo
chuẩn của mẫu câu hỏi HADS, cho thấy tỉ lệ số
bệnh nhân có lo âu và trầm cảm chiếm phần
không nhỏ (bảng 3). Khảo sát ghi nhận được chỉ
có 139 bệnh nhân (44,40%) trong tổng số bệnh
nhân không có tâm trạng lo âu và 114 bệnh nhân
(36,40%) không bị trầm cảm. Ngược lại, kết quả
cho thấy có 56 (17,89%) bệnh nhân thật sự đang
lo âu, cũng như 55 (17,57%) thật sự trầm cảm.
Các báo cáo trong y văn thế giới về khảo sát
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 88
mức độ lo âu và trầm cảm của bệnh nhân trước
mổ(1,2,4,5,7), đặc biệt sử dụng mẫu câu hỏi HADS(6,8)
cho thấy các biến dịch tễ xã hội (như: giới, tuổi,
nghề, học vấn v.v..) có liên quan tác động đến
mức độ của lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên giữa
các báo cáo kết quả có khác nhau về các biến có
ảnh hưởng. Thí dụ, Soskolone và cộng sự (9) ghi
nhận biến giới tính có ảnh hưởng tới mức độ
trầm cảm, trong đó giới nữ bị trầm cảm nhiều
hơn nam. Trong một nghiên cứu khác, Unsal và
cộng sự(12) báo cáo giới nữ có độ lo âu và trầm
cảm cao hơn nam. Trong khi Shuldham(10) không
ghi nhận có sự ảnh hưởng của giới tính và tuổi
với mức lo âu và trầm cảm. Sự khác biệt về giới
tính trên mức độ lo âu có thể tùy thuộc vào sự
khác nhau về xã hội, văn hóa của các mẫu
nghiên cứu. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
theo kết quả Bảng 1 với các biến về dịch tễ xã
hội, chúng tôi ghi nhận có sự khác biệt có ý
nghĩa về giới, tuổi và trình độ học vấn. Nữ giới
cao hơn nam giới trong mức độ lo âu. Sự khác
biệt giữa các khoảng tuổi và các mức trình độ
học vấn có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm có
ý nghĩa về mặt thống kê.
Ngoài các biến dịch tễ xã hội, chúng tôi cũng
khảo sát một số biến liên quan về bệnh lý và
thông tin người bệnh cần biết đến mức độ lo âu
và trầm cảm (Bảng 2). Chúng tôi không ghi nhận
có sự tác động khác nhau giữa các nguyên nhân
bệnh lý, u não hay bệnh lý cột sống, lên mức độ
lo âu hay trầm cảm. Ngược lại, các biến liên
quan thông tin có tác động lên mức lo âu hay
trầm cảm có ý nghĩa về thông kê (P < 0) qua
phép kiểm sự khác biệt về phân phối giữa nhiều
tổng thể giữa các dữ liệu mẫu Kruskal – Wallis
(Bảng 2). Như đã nói phần trên, xét theo ngưỡng
số điểm để phân mức lo âu hay trầm cảm thì trị
trung bình tổng số điểm của các tổng thể các
biến khảo sát trong mẫu không nằm ở giới hạn
để xếp loại có lo âu hay trầm cảm. Tuy nhiên, so
sánh trị trung bình giữa các tổng thể của biến
cho thấy vài điều đáng quan tâm từ nghiên cứu.
Thí dụ, trong “biến số người bệnh cần thông tin
tư vấn về bệnh trạng” từ bác sĩ, những bệnh
nhân ở hạng mục (tổng thể) “chưa biết gì” về
bệnh trạng của mình có tổng trung bình số điểm
HADS‐A cao hơn (mức độ lo âu hơn) những
bệnh nhân ở hạng mục “đã biết đủ” vì đã được
tư vấn thông tin. Một thí dụ khác về “biến số
thông tin tài chánh”, những bệnh nhân ở hạng
mục “không đáng lo” về tài chánh sẽ có tổng
trung bình số điểm HADS‐A và HADS‐D thấp
hơn (mức độ lo âu và trầm cảm ít hơn) so với
những bệnh nhân ở hai hạng mục “muốn biết
để lo liệu” và “sợ không lo nổi”.
Trạng thái lo âu trước mổ đã được xem như
là một đáp ứng bình thường của bệnh nhân.
Những lo lắng về thực tại của chính cuộc mổ
như đau sau mổ, sợ có nhiễm trùng, sợ không
toàn vẹn cơ thể hay phải lệ thuộc săn sóc vào
người lạ ở hậu phẫu v.v có thể làm người
bệnh rơi vào trạng thái lo âu. Lo lắng cũng có
thể từ những suy nghĩ hậu quả của cuộc mổ như
sự tàn phế sau mổ, không thể trở về cuộc sống
sinh hoạt, lối sống hằng ngày, khả năng đóng
góp với gia đình v.v... Trạng thái lo âu cũng có
thể bị tác động bởi kinh nghiệm trải qua cuộc
mổ trước đây của người bệnh, của người thân
hay bạn bè hay những người bệnh khác chung
phòng (7, 8). Lo âu là trạng thái chủ quan và có thể
chịu tác động bởi những yếu tố nội tại và môi
trường như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, mức
sống, hôn nhân, nghề nghiệp và tôn giáo v.v
Trạng thái lo âu có thể gây chuỗi những
đáp ứng thực thể. Về mặt đáp ứng sinh lý, cơ
thể có thể thay đổi: nhịp tim nhanh, huyết áp
tăng, thân nhiệt tăng, đổ mồ hôi, buồn nôn,
tăng nhạy cảm với tiếp xúc thân thể, mùi, sự
ồn ào. Về mặt đáp ứng tâm lý có những thay
đổi về thái độ như dễ căng thẳng, cáu gắt, sợ
sệt hay dễ kích động. Một số nghiên cứu đã
báo cáo bệnh nhân ở trạng thái lo âu có thể
đáp ứng khác nhau và thường đòi hỏi cao hơn
về liều lượng thuốc gây mê cũng như giảm
đau sau mổ. Sự lo âu cũng gây tác động lên sự
co mạch ngoại vi khiến khó khăn trong khâu
đặt nội khí quản, tìm mạch đặt đường truyền
cũng như kéo dài sự lành vết thương(7,8).
Nghiên cứu này có thể được xem như báo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 89
cáo đầu tiên về vấn đề lo âu trước mổ chương
trình của bệnh nhân tại một khoa ngoại thần
kinh nói riêng, hay khoa ngoại nói chung ở
trong nước(2,5,6,11). Giữa các báo cáo trong y văn
trên thế giới, cũng như so sánh với nghiên cứu
của chúng tôi có sự khác nhau những kết quả về
mức độ cũng yếu tố tác động đến trạng thái lo
âu trước mổ của bệnh nhân(1,3,5,12). Điều này có
thể giải thích do sự khác nhau về số lượng mẫu