Mở đầu: Nấm mốc là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Với những tác hại rất lớn
của nấm mốc, các nước đã có quy định giới hạn mức độ nhiễm nấm trong không khí ở bên trong nhà, tuy
nhiên nước ta chưa có quy định này. Trong khi đó, khí hậu Việt Nam nóng ẩm là điều kiện thích hợp cho
nấm mốc phát triển. Thật vậy, hiện nay bệnh nấm ngày càng gia tăng, nhất là bệnh đường hô hấp, mắt, tai
mũi họng Bệnh nấm đặc biệt xảy ra ở những người suy giảm miễn dịch. Con người ở trong môi trường
làm việc và học tập nhiều giờ, thời gian tiếp xúc môi trường ô nhiễm khá dài, do đó có nguy cơ nấm mốc
chắc chắn sẽ xảy ra.
Mục tiêu: Khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc các phòng làm việc không dùng máy lạnh của trường học
và định danh nấm nhằm phát hiện các loại nấm mốc gây bệnh cho người.
Phương pháp: Lấy mẫu nấm bằng máy Mas 100, định danh bằng phương pháp cổ điển dựa theo màu
sắc khúm nấm và cấu trúc nấm ở kính hiển vi.
Kết quả: Mức độ nhiễm nấm của 10 phòng không máy lạnh là 1397 – 1777 CFU/m3 không khí. Cả 10
phòng khảo sát đều nhiễm vi nấm thuộc chi Penicillium, Aspergillus, Cladosporium và nấm sợi màu với tỉ lệ
cao hơn các nấm khác và với mức độ nhiễm từng loại nấm > 50 CFU/m3 không khí. Đa số nấm mốc được
phát hiện đều là nấm có thể gây bệnh cho người.
Kết luận: Tất cả phòng khảo sát đều nhiễm nấm mốc với mức độ cao, nguy cơ ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người. Do đó cần phải có biện pháp loại trừ nấm mốc như dọn vệ sinh thường xuyên, giảm độ
ẩm của phòng.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc trong không khí ở phòng làm việc không dùng máy lạnh của trường học tại quận Bình Thạnh - Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 94
BÀN LUẬN - KẾT LUẬN
Chúng tôi chọn quercetin là chất đối chiếu
vì theo một số tài liệu, hợp chất này có mặt rất
nhiều trong nhóm flavonoid của các loài
Crinum. Mẫu thử cũng được triển khai với kỹ
thuật sắc ký lỏng hiệu năng cao cũng chứng
minh sự hiện diện của hợp chất này trong dịch
chiết lá TNHC.
Mẫu trắng sử dụng trong qui trình là khác
biệt: mẫu trắng có thuốc thử AlCl3 và mẫu
trắng không có tác nhân này đã giúp qui trình
có tính chọn lọc hơn.
Qui trình đã được khảo sát các tỉ lệ thuốc
thử để chọn tỉ lệ phù hợp nhất: phức tạo thành
trong suốt, đạt yêu cầu định lượng bằng
quang phổ Uv-Vis.
Qui trình đạt các yêu cầu thẩm định, các
kết quả đều nằm trong giới hạn cho phép.
Hàm lượng flavonoid toàn phần trong lá
TNHC thu hái ở Bình Định cao nhất trong số 4
tỉnh/thành phố đem so sánh. Lá thu hái vào
tháng 5 có hàm lượng flavonoid toàn phần cao
hơn khi thu hái ở tháng 4 và tháng 6.
Đề tài đã xây dựng và thẩm định qui trình
định lượng được flavonoid toàn phần trong lá
TNHC tính theo quercetin bằng quang phổ UV
– Vis đã góp phần vào công tác kiểm tra nhanh
chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào, có thể
triển khai vào thực tế sản xuất của các xí
nghiệp dược phẩm trong nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chang C.C., Yang M.H., Wen H.M., Chern J.C.,
“Estimation of Total Flavonoid Content in Propolis by
Two Complementary Colorimetric Methods” (2002), Jounal
of Food and Drug Analysis, Vol.10, No.3, pp. 178 – 182.
2. Mai Đình Trị, Nguyễn Công Hào (2005),
“Phenylpropanoid và flavonol glycosides được cô lập từ lá
cây tươi Trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.”, Tạp
chí hóa học, 2 (34), tr. 8–10.
3. Nguyễn Hải Nam, Nguyễn Tiến Vững (2006), “Phân lập
và xác định cấu trúc của hai flavonoid từ Crinum latifolium
L.”, Tạp chí dược học, (1), trang 7–8.
4. Nguyen Thanh Sy, Nguyen Huu Lac Thuy, Vo Thi Bach
Hue (2009) “Determination of total phenolic compounds
from Crinum latifolium L. leaves by folin-ciocaltue
method”. Proceding of the 6th, Indochina conference on
pharmaceutical sciences, pp 198 - 202.
5. Renata J.G., Jadranka V., Dario K., Sanda V.K. (2007),
“Flavonoid Content Assay: Prevalidation and Application
on Plantago L. Species”, Acta Chim. Slov., 54, pp. 397 – 406.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 95
KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHIỄM NẤM MỐC TRONG KHÔNG KHÍ
Ở PHÒNG LÀM VIỆC KHÔNG DÙNG MÁY LẠNH CỦA TRƯỜNG HỌC
TẠI QUẬN BÌNH THẠNH-THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thị Phương Xuân*, Trần Thị Hạnh Tiên**, Lê Thị Ngọc Huệ*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nấm mốc là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Với những tác hại rất lớn
của nấm mốc, các nước đã có quy định giới hạn mức độ nhiễm nấm trong không khí ở bên trong nhà, tuy
nhiên nước ta chưa có quy định này. Trong khi đó, khí hậu Việt Nam nóng ẩm là điều kiện thích hợp cho
nấm mốc phát triển. Thật vậy, hiện nay bệnh nấm ngày càng gia tăng, nhất là bệnh đường hô hấp, mắt, tai
mũi họngBệnh nấm đặc biệt xảy ra ở những người suy giảm miễn dịch. Con người ở trong môi trường
làm việc và học tập nhiều giờ, thời gian tiếp xúc môi trường ô nhiễm khá dài, do đó có nguy cơ nấm mốc
chắc chắn sẽ xảy ra.
Mục tiêu: Khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc các phòng làm việc không dùng máy lạnh của trường học
và định danh nấm nhằm phát hiện các loại nấm mốc gây bệnh cho người.
Phương pháp: Lấy mẫu nấm bằng máy Mas 100, định danh bằng phương pháp cổ điển dựa theo màu
sắc khúm nấm và cấu trúc nấm ở kính hiển vi.
Kết quả: Mức độ nhiễm nấm của 10 phòng không máy lạnh là 1397 – 1777 CFU/m3 không khí. Cả 10
phòng khảo sát đều nhiễm vi nấm thuộc chi Penicillium, Aspergillus, Cladosporium và nấm sợi màu với tỉ lệ
cao hơn các nấm khác và với mức độ nhiễm từng loại nấm > 50 CFU/m3 không khí. Đa số nấm mốc được
phát hiện đều là nấm có thể gây bệnh cho người.
Kết luận: Tất cả phòng khảo sát đều nhiễm nấm mốc với mức độ cao, nguy cơ ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người. Do đó cần phải có biện pháp loại trừ nấm mốc như dọn vệ sinh thường xuyên, giảm độ
ẩm của phòng.
Từ khoá: Mức độ nhiễm nấm mốc, các phòng không dùng máy lạnh, bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
ABSTRACT
RESEARCH ON THE AIR POLLUTED MOULDS LEVEL
IN NON AIR-CONDITIONED SCHOOL OFFICES IN BINH THANH DISTRICT, HCM CITY
Do Thi Phuong Xuan, Tran Thi Hanh Tien, Le Thi Ngoc Hue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 95 - 100
Background: The mould is one of the reasons causing air pollution. The moulds are very harmful to
health, so many countries have proposed limiting the level of indoor air pollution, however there is no such
regulation in our country. The climate in Viet Nam is hot and humid, that is a good condition for
development of the moulds. Nowadays, diseases caused by the moulds increasing, these are respiratory,
otorhinolaryngology diseases, especially on the immune deficiency patients. Man study and work there all
day, they contact polluted environment for a long time, so moulds can cause great harm to their health.
Objectives: Research on the polluted mould level in 10 non air-conditioned school offices and identify
the moulds to discover harmful moulds.
*Bộ môn Vi Ký Sinh - Khoa Dược - ĐHYD Tp Hồ Chí Minh
**Khoa Công nghệ Sinh học - Trường Đại học Mở Tp.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Thị Ngọc Huệ ĐT: 0906394895 Email: ngochue_l@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 96
Method: Research on fungal contamination in offices by using Mas 100 for sampling and identifying
the moulds by following the classical method which is based primarily on colony color and mould
morphology.
Results: The polluted moulds levels of the 10 non air-conditioned offices were about 1397 – 1777 CFU
in air cubic metre. All of ten offices were infected by the genera such as Penicillium, Aspergillus,
Cladosporium and the group of dematiaceous fungi whose proportion was higher than the other, and a single
fungal species was more than 50 CFU/m3 air. The majority of moulds discovered are harmful ones which can
cause diseases.
Conclusion: All of studied offices have been polluted the moulds at the high level, that can be harmful to
human health. So, these places need the method to reduce the moulds such as regular clearing offices,
reducing humidity.
Keywords: The polluted moulds level, non air-conditioned offices, immune deficiency patient.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình hình ô nhễm không khí ngày càng
trầm trọng và bệnh do nấm ngày càng gia tăng
trong thời đại hiện nay. Nấm mốc thường gây
các bệnh như dị ứng, hen suyễn, viêm mắt, tai,
mũi, họng, hô hấp, đau đầu, đau khớp, ảnh
hưởng hoạt động thần kinh trung ương, giảm
sức đề khángBệnh nấm thường xảy ra ở
những người suy giảm miễn dịch: đặc biệt
người bệnh AIDS hay người bệnh mãn tính
như lao, tiểu đường, sốt rét, hay người dùng
thuốc corticoid kéo dàivà bệnh nấm còn gặp
ở các bệnh nhân trong tình trạng bệnh nặng ở
các khoa phòng cấy ghép cơ quan(10)
Cộng đồng các nhà khoa học quốc tế lo
lắng về vấn đề ô nhiễm không khí ở những
môi trường khép kín. Những nơi được quan
tâm nhiều nhất là những khu vực mà con
người ở thời gian dài như nhà ở, trường học và
nơi làm việc.
Do những tác hại trầm trọng của nấm mốc,
các nước trên thế giới đa số đều có quy định về
mức độ nhiễm nấm mốc bên trong nhà. Tuy
nhiên Việt Nam chỉ có quy định về vi khuẩn.
Trong khi đó nước ta có khí hậu nóng ẩm thích
hợp cho nấm mốc phát triển, môi trường
không khí với mức độ ô nhiễm khá cao. Theo
Việtnamnet năm 2007, báo cáo tình hình ở khu
Pháp Vân Hà Nội với mức độ nhiễm nấm mốc
449 CFU/m3 không khí vào mùa lạnh và 532
CFU/m3 không khí vào mùa nóng. Khu vực
này có tình hình bệnh đường hô hấp gia tăng.
Ngoài ra, các công trình vừa qua của nhóm
nghiên cứu chúng tôi khảo sát mức độ nhiễm
nấm trong phòng làm việc dùng máy lạnh với
kết quả khá cao từ 200 – 530 CFU/m3 không khí.
Do đó đề tài thực hiện với các mục tiêu:
- Khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc trong
không khí của 10 phòng làm việc không dùng
máy lạnh của trường học.
- Định danh chi nấm nhằm phát hiện nấm
mốc độc gây nguy hại cho sức khỏe con người.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
10 phòng làm việc không dùng máy lạnh
của trường học ở quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh (thư viện, phòng y tế, văn phòng
đoàn, tài vụ, giáo vụ) không là phòng đang
dạy có nhiều học viên.
Nhiệt độ và độ ẩm của 10 phòng khảo sát
tóm tắt bảng sau.
Bảng 1. Nhiệt độ và độ ẩm tương đối của 10 phòng
khảo sát không dùng máy lạnh
Phòng
Nhiệt
độ
(0C)
Độ ẩm
tương đối
(%)
Phòng
Nhiệt
độ
(0C)
Độ ẩm
tương đối
(%)
P1 28 – 29 65,5 – 70 P6 30 63,5 – 65,5
P2 28 – 29 65 – 70 P7 29 – 30 57 – 66
P3 30 64 – 68 P8 29 – 30 64,5 – 65,5
P4 29 – 30 65 – 67 P9 30 63,5 – 65
P5 30 63,5 – 67 P10 29 – 30 62,5 – 66,5
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 97
Phương pháp lấy mẫu(12)
Dùng máy Mas 100, đĩa thạch Sabouraud.
Lấy mẫu buổi sáng, trong 3 ngày liên tiếp.
Vận hành máy với tốc độ 50 L/phút, tại 5 vị
trí: 4 góc phòng và chính giữa phòng.
Đem đĩa thạch ủ ở nhiệt độ 250C trong 7
ngày.
Đếm tổng số khúm nấm trong đĩa thạch.
Cách tính kết quả CFU/m3 (CFU: Colony
Forming Unit)
B = A/15
A: tổng số khúm nấm của 5 góc phòng
trong 3 ngày.
B: trung bình số khúm nấm trong 1 đĩa của
1 phòng.
D = C x 20
C: tổng số khúm nấm trong phòng được
tra từ B theo bảng quy định của tài liệu máy
Mas 100.
D: CFU/m3 không khí.
Phương pháp định danh(5,6,7)
Định danh theo phương pháp cổ điển dựa
vào hình dạng, màu sắc của khúm nấm và đặc
điểm hình thái cấu trúc nấm mốc xem ở kính
hiển vi.
Định danh sơ bộ để xác định chi nấm. Nếu
nấm chưa định danh được hay nấm không có bào
tử, tham khảo tài liệu để chọn môi trường thích
hợp cho nấm như PDA (Potato Dextrose Agar),
MEA (Malt Extract Agar), CYA (Czapek Yeast
extract Agar), CZ (Czapek-Dox), .hay làm thêm
một số phản ứng sinh hoá hoặc cấy vào môi
trường đặc biệt như thạch máu theo tính đặc thù
của một số nấm để xác định chi nấm.
Sau đó cấy 3 điểm (màu sắc khúm nấm) và
cấy trên lam (đặc điểm hình thái cấu trúc nấm)
để đo đạc kích thước và so sánh với tài liệu.
KẾT QUẢ
Kết quả khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc
được tóm tắt ở bảng 2 và biểu đồ 1.
0
1
2
As
per
gil
lus
Bip
ola
ris
Ch
aet
om
ium
Cu
rvu
lar
ia
Ch
rys
on
ilia
Fu
sar
ium
Mu
cor
Rh
izo
mu
cor
Rh
izo
pu
s
Syn
cep
ha
las
tru
m
Pa
eci
lom
yce
s
Pe
nic
illi
um
Rh
od
oto
rul
a
Các chi nấm
Tỷ
lệ
%
Biểu đồ 1. Tỉ lệ % mức độ nhiễm các chi nấm của 10 phòng khảo sát
Bảng 2. Kết quả khảo sát mức độ nhiễm nấm mốc ở 10 phòng không máy lạnh
TT Tên nấm CFU/m
3 không khí
P1 P2 P3 P4 P5 P6 P7 P8 P9 P10
1 A. flavus 23 24 13 16 13 12 16 19 13 22
2 A. fumigatus 3 7 1 2 3 7 2 10 0 4
3 A. nidulans 1 1 1 2 0 0 0 6 1 6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 98
TT Tên nấm CFU/m
3 không khí
P1 P2 P3 P4 P5 P6 P7 P8 P9 P10
4 A. niger 23 56 47 46 36 40 40 34 43 32
5 Aspergillus sp. 1 3 0 3 0 1 3 0 4 1
6 Acremonium sp. 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0
7 Bipolaris sp. 0 1 0 0 0 1 6 3 7 3
8 Chaetomium sp. 0 0 0 0 0 1 3 4 0 0
9 Chrysonilia sp. 3 7 1 3 3 1 2 6 25 1
10 Cladosporium và nấm sợi màu 1211 1433 1237 1419 1175 1148 1249 1239 1276 969
11 Curvularia sp. 7 6 12 10 10 6 4 3 13 7
12 Fusarium sp. 16 16 4 3 7 16 18 4 34 10
13 Mucor sp. 1 1 0 3 0 0 0 0 6 0
14 Paecilomyces sp. 16 1 3 7 3 7 2 1 0 1
15 Penicillium sp. 208 183 174 201 140 120 129 178 149 177
16 Rhizomucor sp. 0 0 3 5 1 0 0 0 0 0
17 Rhizopus sp. 1 0 1 6 0 1 6 1 1 6
18 Rhodotorula sp. 0 0 3 0 1 0 3 1 4 0
19 Scopulariopsis sp. 1 0 1 0 1 1 0 1 0 0
20 Syncephalastrum sp. 0 1 4 5 0 3 0 6 0 3
21 Trichoderma sp. 0 0 0 0 0 0 3 3 0 0
22 Nấm men khác 23 10 20 7 17 6 19 10 16 13
23 Nấm sợi khác 58 27 13 2 7 26 18 28 44 144
Tổng cộng 1596 1777 1538 1740 1417 1397 1523 1557 1637 1399
Chú thích: Aspergillus: A - Nấm sợi: nấm chỉ thấy sợi tơ nấm không có bào tử.
Qua quá trình thực nghiệm xác định được
17 chi.
Trong 17 chi gồm 16 chi nấm sợi, 1 chi nấm
men (Rhodotorula).
BÀN LUẬN
Quy định giới hạn cho phép mức độ
nhiễm nấm trong 1 m3 không khí
Có nhiều đề nghị giới hạn mức độ nhiễm
nấm mốc trong không khí nhà ở của các nước
như sau:
Bảng 3. Quy định độ nhiễm nấm bên trong nhà của các nước(1,2,8,9,13)
TT Giới hạn nấm mốc Nguồn gốc
1 < 100 CFU/m3 không khí ACGIH 1989
2 < 200 CFU/m3 không khí US Public Health Service 1993
3 < 300 CFU/m3 không khí Robetson (Mỹ) 1997
4 < 500 CFU/m3 không khí Singapore
5 < 50 CFU/m
3 không khí cho từng chủng loại nấm
(trừ Cladosporium spp.) WHO; Robertson (Mỹ) 1997; Canada 1993
- Mức độ nhiễm nấm của nơi khảo sát từ
1397 – 1777 CFU/m3 không khí. Theo tham
khảo bảng 3, quy định mức đô nhiễm nấm của
các nước khác nhau, nếu dựa theo quy định
mức độ nhiễm nấm cao nhất là < 500 CFU/m3
thì kết quả khảo sát cho thấy mức độ nhiễm
nấm gấp 3 lần quy định cho phép. Ngoài ra,
theo tài liệu cho biết nhân viên văn phòng
thường bị bệnh đường hô hấp do môi trường
làm việc nhiễm nấm ở mức độ 344 CFU/m3 (3).
Vậy 100% nơi khảo sát có nguy cơ nấm mốc
gây hại sức khoẻ con người.
- Đa số các phòng khảo sát đều có chi
Aspergillus, Penicillium, Cladosporium có mức
độ nhiễm cao hơn các chi nấm khác. Kết quả
này cũng phù hợp với các công trình khảo sát
các nước (3,4).
Qua bảng 3, ngoài quy định giới hạn tổng
số nấm mốc có trong m3 không khí còn có quy
định từng chủng loại nấm không được vượt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 99
quá 50 CFU/m3, vì nếu nấm mốc vượt quá mức
giới hạn này sẽ gây nguy hại đến sức khoẻ con
người. Với quy định này cho thấy đa số các
phòng khảo sát đều có nguy cơ bị tác hại bởi
nấm mốc vì có mức độ nhiễm 3 chi nấm
Aspergillus, Penicillium, Cladosporium khá cao (>
50 CFU/m3 không khí). Mặc dù chi
Cladosporium không có quy định mức độ
nhiễm cho từng loại nấm nhưng chi nấm này
có tác hại gây dị ứng, hơn nữa theo báo cáo
của BV ĐHYD Huế năm 2008, ca bệnh não do
Cladosporium batiana ở bệnh nhân không nhiễm
HIV(11).
- Riêng chi Aspergillus, định danh 4 nhóm
loài như A. flavus, A. fumigatus, A. nidulans, A.
niger. Trong đó A. niger có tỉ lệ nhiễm cao hơn
các nhóm loài khác.
Theo tài liệu tóm tắt ở bảng 2 quy định mỗi
chủng loại nấm mốc nhiễm phải < 50 CFU/m3
vì nếu vượt quá mức cho phép sẽ gây nguy hại
đến sức khoẻ con người và theo tài liệu 12 nếu
nhiễm Aspergillus > 50 CFU/m3 không khí gây
kích ứng mắt, da, ho. Vậy với kết quả trên,
100% phòng khảo sát bị nhiễm nấm mốc ở
mức độ nguy hiểm.
- Theo tài liệu 2, 6, 7 và các ca lâm sàng đã
báo cáo, các nấm định danh được ở 10 phòng
khảo sát hầu hết đều là nấm có thể gây hại đến
sức khoẻ con người.
- Mức độ nhiễm của các phòng không có
chênh lệch nhiều. Riêng 4 phòng có mức độ
nhiễm nấm cao là P1, P2, P4, P9 có đặc điểm ở
một góc của trường, môi trường không thông
thoáng như ở các địa điểm khác và gần cầu
thang có nhiều người qua lại.
- Mức độ nhiễm nấm của 10 phòng khảo
sát không dùng máy lạnh cao hơn rất nhiều so
với các phòng dùng máy lạnh (200 – 530
CFU/m3 không khí) của công trình chúng tôi
khảo sát trước đây.
Thật vậy vì 2 khu vực khảo sát khác nhau:
các phòng dùng máy lạnh ở Q1, còn các phòng
không dùng máy lạnh ở quận Bình Thạnh
(BT). Ngoài ra, đặc điểm kiến trúc cũng khác
nhau, trường học ở Q1 sân rộng, thông thoáng
hơn, có nhiều cây xanh ngược lại với trường ở
Q. BT. Cách sinh hoạt cũng khác nhau, trường
ở Q. BT với đặc điểm số lượng học viên cùng
ra vào trường theo giờ (giờ chơi, về) ngược lại
trường ở Q1.
Với đặc điểm trên phần nào giải thích môi
trường không khí của khu vực 10 phòng khảo
sát không dùng máy lạnh ô nhiễm hơn và gây
làm gia tăng mức độ nhiễm bên trong phòng.
KẾT LUẬN
Theo tham khảo quy định mức độ nhiễm
nấm của các nước cho thấy 100% phòng khảo
sát với mức độ nhiễm nấm khá cao. Đa số nấm
mốc nhiễm là nấm mốc độc hại. Nếu thời gian
con người phơi nhiễm ở trong môi trường này
khá nhiều giờ hay ở những người có cơ địa dị
ứng, suy giảm miễn dịch thì nấm mốc sẽ có
nguy cơ gây hại sức khoẻ.
Qua khảo sát cho thấy những phòng có
mức độ nhiễm nấm cao hơn các phòng khác
đều có đặc điểm chung là phòng có nhiều
người ra vào. Ngoài ra 100% phòng khảo sát
có độ ẩm tương đối > 60%, đây là những
điều kiện của sự hình thành và phát triển của
nấm mốc. Vì thế, các nơi này cần có biện
pháp khắc phục mức độ ô nhiễm nấm như vệ
sinh môi trường thường xuyên và giảm độ
ẩm của phòng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Air-Care Engineering (S) Pte Ltd (1998-2005).
2. Bakhda S. (2007). Indoor air quality audit based on
Singapore national environment agency (NEA) guidelines.
PRlog.Org-Global Press Release Distribution.
3. Buczyńska A., Cyprowski M. (2007). Indoor moulds:
results of the environmental study in office rooms. Med
Pr. 58(6): p. 521-525.
4. Cetinkaya Z., Fidan F. (2005). Assessment of indoor air
fungi in Western-Anatolia, Turkey. Asian Pacific Journal
of Allergy and Immunology. 23(2-3): p. 87-92.
5. Đặng Vũ Hồng Miên (1976). Bảng phân loại các loài nấm
mốc thường gặp. NXB Minh Sang, Hà Nội, tr. 371 – 375.
6. Dettoog G.S. (2000). Atlas of clinical fungi, 2nd ed.
Centraalbureau Voor Schimmel cultures, Spain. p: 128,
156, 164, 444 – 445, 596, 523, 857, 899, 928.
7. Germain S.G. (1996). Identifying filamentous fungi. A
clinical laboratory handbook. p. 54, 64, 63-77, 82, 84-85, 90-
93,104, 106, 160, 178, 200, 263-265.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 100
8. Giardino J.N. (2004). Summary of currently available
guidelines for fungal levels in indoor, Pure air control
services.
9. Kowalski W.J.(2000). Indoor mold growth- Health hazards
and remediation, HPAC Engineering (Heating/Piping/Air
Conditioning Engineering).
10. Nguyễn Đinh Nga (2009). Sách Ký Sinh Trùng. NXB Giáo
Dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 254-276.
11. Pham Van Linh, Truong Quang Anh, Ton Nu Phuong
Anh, Tran Duc Thai, Nguyen Thi Hoa (2008).
Cladophialophora bantiana and Candida albicans mixed
infection in cerebral abscess of an HIV- negative patient. J.
Infect Developing Countries. 2(3): p. 245-248.
12. Roger D. (1999). Indoor air quality and airborne micro-
organisms, Current Issues in occupational and
environmental health. UK and Canada.
13. WHO (2000). Ambient air quality monitoring and
assessment. Guidelines for Air quality, Geneva. p. 82-104.