Khảo sát tình hình gãy xương chính mũi tại Bệnh viện tai mũi họng Thành phố Hồ Chí Minh

Gãy xương chính mũi (GXCM) là một chấn thương thường gặp trong Tai Mũi Họng. Di chứng của GXCM gây khó khăn về mặt chức năng và ảnh hưởng sâu sắc đến mặt thẩm mỹ và tâm lý của người bị tai nạn. Nếu được tiếp nhận sớm và chẩn đoán đúng, hầu hết các trường hợp gãy xương chính mũi có thể được phục hồi lại vị trí ban đầu, và tránh được các biến chứng như biến dạng về mặt thẩm mỹ, nghẹt mũi. Mục tiêu: Khảo sát tình hình chấn thương GXCM tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh (BV TMH TPHCM). Phương pháp: Hồi cứu, cắt ngang mô tả hàng loạt ca. Đối tượng nghiên cứu: Những bệnh nhân được chẩn đoán GXCM tại khoa Cấp cứu BV TMH TPHCM. Mẫu thu thập được 559 bệnh nhân được chẩn đoán GXCM qua hồ sơ lưu lại và 363 bệnh nhân được nâng xương chính mũi qua gọi điện thoại phỏng vấn. Kết quả: Trong năm 2010, khoa Cấp cứu Bệnh Viện Tai Mũi Họng TPHCM (BVTMH) đã tiếp nhận 559 trường hợp, chấn thương chủ yếu xảy ra ở nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi (69%), bệnh nhân nam chiếm gấp 3,59 lần bệnh nhân nữ, nguyên nhân chủ yếu là do đả thương (36,9%) và tai nạn giao thông (29,7%) (chủ yếu là xe máy va chạm xe máy), gãy di lệch sang bên là dạng gãy xương chính mũi thường gặp nhất (71%). Những bệnh nhân này sau khi được chẩn đoán, có 363 trường hợp (65%) được nâng xương chính mũi, chủ yếu được nâng trong vòng 3 ngày sau tai nạn (86%). Khảo sát độ hài lòng của 65 bệnh nhân sau nâng xương chính mũi. Có 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ biến dạng mũi, 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ thẩm mĩ mũi, không có bệnh nhân nào không hài lòng về đường thở mũi. Tỉ lệ bệnh nhân cho rằng mũi mình “tốt/đẹp như trước” và “tốt/đẹp hơn trước” chiếm đa số (80% phương diện thẩm mỹ, 83% ở khía cạnh chức năng). Kết luận: Qua nghiên cứu, cách phòng ngừa GXCM hiện nay nên tập trung vào tuyên truyền nâng cao ý thức người dân chấp hành nghiêm túc nội quy an toàn giao thông và kiềm chế trong các tình huống nóng giận. Hạn chế số lượng xe gắn máy bằng các biện pháp hành chính, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng, bảo trì và nâng cấp chất lượng đường xá. Cần nghi ngờ và thăm khám loại trừ gãy xương chính mũi ở các bệnh nhân có bệnh sử chấn thương nặng vùng mặt, kèm chảy máu mũi hay nghẹt mũi sau chấn thương. Điều trị xương chính mũi nên xem xét hàng đầu là nắn kín xương chính mũi sau khi gây tê tại chỗ khi các phương pháp này đơn giản có thể áp dụng ở các cơ sở tuyến, giảm chi phí, thời gian điều trị, tránh các rủi ro do thuốc mê mà hiệu quả điều trị vẫn ở mức cao, đem lại sự hài lòng cho người bị tai nạn.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình gãy xương chính mũi tại Bệnh viện tai mũi họng Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 72 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH GÃY XƯƠNG CHÍNH MŨI TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG TPHCM Trần Ngọc Tường Linh*, Nguyễn Thị Ngọc Dung** TÓM TẮT Gãy xương chính mũi (GXCM) là một chấn thương thường gặp trong Tai Mũi Họng. Di chứng của GXCM gây khó khăn về mặt chức năng và ảnh hưởng sâu sắc đến mặt thẩm mỹ và tâm lý của người bị tai nạn. Nếu được tiếp nhận sớm và chẩn đoán đúng, hầu hết các trường hợp gãy xương chính mũi có thể được phục hồi lại vị trí ban đầu, và tránh được các biến chứng như biến dạng về mặt thẩm mỹ, nghẹt mũi. Mục tiêu: Khảo sát tình hình chấn thương GXCM tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh (BV TMH TPHCM). Phương pháp: Hồi cứu, cắt ngang mô tả hàng loạt ca. Đối tượng nghiên cứu: Những bệnh nhân được chẩn đoán GXCM tại khoa Cấp cứu BV TMH TPHCM. Mẫu thu thập được 559 bệnh nhân được chẩn đoán GXCM qua hồ sơ lưu lại và 363 bệnh nhân được nâng xương chính mũi qua gọi điện thoại phỏng vấn. Kết quả: Trong năm 2010, khoa Cấp cứu Bệnh Viện Tai Mũi Họng TPHCM (BVTMH) đã tiếp nhận 559 trường hợp, chấn thương chủ yếu xảy ra ở nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi (69%), bệnh nhân nam chiếm gấp 3,59 lần bệnh nhân nữ, nguyên nhân chủ yếu là do đả thương (36,9%) và tai nạn giao thông (29,7%) (chủ yếu là xe máy va chạm xe máy), gãy di lệch sang bên là dạng gãy xương chính mũi thường gặp nhất (71%). Những bệnh nhân này sau khi được chẩn đoán, có 363 trường hợp (65%) được nâng xương chính mũi, chủ yếu được nâng trong vòng 3 ngày sau tai nạn (86%). Khảo sát độ hài lòng của 65 bệnh nhân sau nâng xương chính mũi. Có 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ biến dạng mũi, 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ thẩm mĩ mũi, không có bệnh nhân nào không hài lòng về đường thở mũi. Tỉ lệ bệnh nhân cho rằng mũi mình “tốt/đẹp như trước” và “tốt/đẹp hơn trước” chiếm đa số (80% phương diện thẩm mỹ, 83% ở khía cạnh chức năng). Kết luận: Qua nghiên cứu, cách phòng ngừa GXCM hiện nay nên tập trung vào tuyên truyền nâng cao ý thức người dân chấp hành nghiêm túc nội quy an toàn giao thông và kiềm chế trong các tình huống nóng giận. Hạn chế số lượng xe gắn máy bằng các biện pháp hành chính, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng, bảo trì và nâng cấp chất lượng đường xá. Cần nghi ngờ và thăm khám loại trừ gãy xương chính mũi ở các bệnh nhân có bệnh sử chấn thương nặng vùng mặt, kèm chảy máu mũi hay nghẹt mũi sau chấn thương. Điều trị xương chính mũi nên xem xét hàng đầu là nắn kín xương chính mũi sau khi gây tê tại chỗ khi các phương pháp này đơn giản có thể áp dụng ở các cơ sở tuyến, giảm chi phí, thời gian điều trị, tránh các rủi ro do thuốc mê mà hiệu quả điều trị vẫn ở mức cao, đem lại sự hài lòng cho người bị tai nạn. Từ khóa: Gãy xương chính mũi (GXCM), nâng xương chính mũi (NXCM). * Lớp Y2006 ĐHYD tpHCM, ** Bộ môn Tai Mũi Họng Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: SV Trần Ngọc Tường Linh ĐT: 0989.047.099 Email: tranngoctuonglinh@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 73 ABSTRACT A REVIEW OF THE NASAL FRACTURE AT THE ENT HOSPITAL OF HO CHI MINH CITY (FROM 01/2010 TO 12/2010) Tran Ngoc Tuong Linh, Nguyen Thi Ngoc Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 72 - 78 Nasal fractures are a common injury in ENT. Sequelae of GXCM cause difficulties and profound impact on aesthetics and psychology of the patient. If receiving early and correct diagnosis, most cases of nasal fractures can be restored to its original position, and avoid complications such as asthetic deformity, nasal obstruction. Objective: A study was conducted to get a review of nasal fractures at Ear Nose & Throat Hospital, Ho Chi Minh City. Methods: A descriptive study, retrospective and cross series of cases. Object of study: The patients who were diagnosed nasal fractures at the Emergency Department of ENT Hospital. Samples collected 559 patients who were diagnosed nasal fractures through medical records and 363 patients who were treated by closed reduction through telephone interviews. Results: In 2010, the Emergency Department of ENT Hospital received 559 cases of injury primarily occurs in patients under 30 years of age (69%), ratio of male patients to female: 3.59, mainly caused by fighting (36.9%) and traffic accidents (29.7%) (mostly motor vehicle collision), lateral deviation fracture is the most type (71%). After diagnostic, there were 363 cases (65%) who are received a closed reduction for treatment, mainly within the first 3 days after the accident (86%). We perform a study of 65 patients who underwent a reduction of nasal fracture in order to evaluate their satisfaction after reduction. The patients were interviewed regarding the esthetic and functional outcomes after reduction. 1.5% of patients were not satisfied in the deformity of nose, 1.5% of patients are not satisfied in nasal aesthetic, all patients are satisfied with the nasal airway.Most of the patients agreed with “better as before” and “better than before” (80% in esthetic aspect, 83% in functional condition). Conclusion: The prevention of nasal fractures should focus on advocacy to raise awareness about abiding by traffic rules and calming down in situations of anger. The government should limit number of motorcycles through administrative measures, encourage people to use public transport, maintain and upgrade the quality of roads. Physicians should suspect a nasal fractures in patients with a history of facial trauma, especially with bleeding nose or nasal congestion after injury. Closed reduction with local anesthesia should be considered as the first choice for treatment. This procedure is simpler, less expensive, reduce the duration of treatment, avoid general anesthetic risk can be applied in the base line, reduce costs, duration of treatment, avoid anesthetic risk and it is still effective and brings satisfaction to patients. Key words: Nasal fractures, closed reduction. MỞ ĐẦU Với mật độ dân cư ngày càng tăng và phương tiên giao thông chủ yếu là xe gắn máy, các chấn thương nói chung đang có chiều hướng ngày một nhiều, trong đó, chấn thương đầu mặt chiếm một phần không nhỏ. Chấn thương gãy xương mũi là chấn thương thường gặp nhất trong các loại gãy xương mặt, ở Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới(3,5,9) và đứng hàng thứ ba trong các loại gãy xương trên cơ thể, chỉ xếp sau gãy xương đòn và gãy xương cổ tay (1, 3). Gãy xương chính mũi tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân nhưng các di chứng của loại chấn thương này không chỉ gây khó khăn về mặt chức năng mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến mặt thẩm mỹ và tâm lý của người bị tai nạn. Nếu được tiếp nhận sớm và chẩn đoán đúng, hầu hết các trường hợp gãy xương chính Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 74 mũi có thể được phục hồi lại vị trí ban đầu, và tránh được các biến chứng như biến dạng về mặt thẩm mỹ, nghẹt mũi(2,6,7). Việc nghiên cứu tình hình chẩn đoán và điều trị và so sánh với kết quả của các nước phát triển trên thế giới sẽ góp phần không nhỏ trong công tác phòng ngừa loại chấn thương phổ biến này. Bên cạnh đó, sự hài lòng về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau khi được điều trị là một trong những cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị gãy xương chính mũi hiện nay. Mục tiêu tổng quát Khảo sát tình hình chấn thương GXCM tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu chuyên biệt Khảo sát các đặc điểm chung ở bệnh nhân gãy xương chính mũi. Khảo sát các nguyên nhân thường gây ra gãy xương chính mũi. Phân loại gãy xương chính mũi và các hướng xử trí. Đánh giá kết quả nắn xương chính mũi về thẩm mỹ và chức năng dựa trên ý kiến chủ quan của bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân GXCM được điều trị tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Tai Mũi Họng từ tháng 01/2010- 12/2010. Chẩn đoán gãy xương chính mũi dựa trên những ghi nhận: Khám lâm sàng: biến dạng mũi, cử động bất thường, tiếng lạo xạo xương. Chụp X quang: thấy đường gãy, di lệch xương. Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu, cắt ngang mô tả hàng loạt ca. Phương pháp đánh giá độ hài lòng của bệnh nhân sau nâng xương chính mũi Tiến hành phỏng vấn các bệnh nhân về tình trạng mũi hiện nay (thẩm mĩ, chức năng) so với lúc trước khi được nâng xương chính mũi theo thang điểm từ 1 đến 5 (từ nhẹ đến nặng). Sau đó, bệnh nhân sẽ tự so sánh hình dạng và chức năng mũi (tình trạng thông thoáng đường thở) hiện nay với trước lúc bị chấn thương. Các lựa chọn được đặt ra là: (1) Đẹp/Tốt hơn trước, (2) Như lúc trước, (3) Xấu/ Tệ hơn trước nhưng chấp nhận được, (4) Xấu/Tệ hơn trước và cần phải điều trị thêm. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Tuổi Tuổi trung bình của bệnh nhân là 27,4 tuổi (1-84 tuổi). Đa số các trường hợp bị tai nạn dưới 30 tuổi (68,4%). Giới Chủ yếu là giới nam, tỉ lệ nam nữ: 3,59:1. Kết quả cho thấy GXCM chủ yếu xảy ra ở người trẻ và nam giới, có thể giải thích điều này vì giới nam cũng như độ tuổi này là nhóm bệnh nhân đang trong tuổi hoạt động và nóng tính hơn những nhóm khác. Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu liên quan ở Việt Nam (Chu Tất Hiển (1)) và thế giới (Kun Hwang và cs (4).) Nguyên nhân Đả thương: 206 trường hợp (36,9%). Tai nạn giao thông: 166 trường hợp (29,7%). Tai nạn sinh hoạt: 95 trường hợp (17%). Tai nạn thể thao: 77 trường hợp (13,8%). Tai nạn lao động: 13 trường hợp (2,3%). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân gây ra gãy xương chính mũi đứng hàng đầu vẫn là đả thương và tai nạn giao thông. Tuy nhiên tỉ lệ nguyên nhân do đả thương là hàng đầu (36,9%) thay vì là tai nạn giao thông (29,7%) khi so với các nghiên cứu trong nước (Chu Tất Hiển, Nguyễn Hữu Khôi) trước đó(1,4). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 75 Ở nhóm nguyên nhân do tai nạn giao thông Bảng 1: Chi tiết các tình huống xảy ra tai nạn giao thông gây gãy xương chính mũi. Phương tiện Tình huống n=166 % Tự té 18 10,84% Say rượu 3 1,81% Đụng xe gắn máy khác 95 57,23% Đụng xe hơi 9 5,42% Xe gắn máy (n= 131) Đụng các vật trên đường 6 3,61% Tự té 4 2,41% Xe đạp (n=12) Đụng xe gắn máy 8 4,82% Xe hơi (n=5) Thắng gấp, mặt đập ghế trước 5 3,01% Đi bộ (n=4) Vấp hoặc té do tránh các phương tiện khác 4 2,41% Không ghi nhận được (n=14) 14 8,43% Số liệu ghi nhận được cho thấy tình huống xảy ra tai nạn chiếm nhiều nhất là xe gắn máy đụng xe gắn máy (95 trường hợp chiếm 57,23%). Với lượng xe gắn máy dày đặc như hiện nay, thiết nghĩ hạn chế gia tăng lượng xe gắn máy hàng năm, khuyến khích sử dụng xe buýt là một cách giảm thiểu tai nạn đúng đắn. Tình huống xảy ra tai nạn đứng thứ 2 là các trường hợp xe gắn máy tự té do bất cẩn, do sụp ổ gà hay đường trơn trợt (10,84%). Số liệu này cũng nhắc nhở rằng bên cạnh việc kiểm soát số lượng các loại xe, chất lượng đường xá cũng luôn phải được chú trọng nhằm tránh các trường hợp đáng tiếc xảy ra mà người đi đường không thể lường trước được. Ở nhóm nguyên nhân do tai nạn thể thao Trong nhóm nguyên nhân do tai nạn thể thao (n= 77), chúng tôi có tỷ lệ các môn thể thao gây tai nạn như sau, khác với suy nghĩ của nhiều người, chiếm tỉ lệ nhiều nhất là môn đá banh (88,31%), võ thuật chỉ chiếm 10,39% Loại gãy xương chính mũi Có khá nhiều cách phân loại gãy xương chính mũi tùy theo từng tác giả. Ở đây chúng tôi sử dụng cách phân loại của Ogawa Takenori và cộng sự do hệ thống phân loại này đơn giản và dễ dàng sử dụng trên lâm sàng. Ogawa Takenori và cộng sự(9) chia gãy xương chính mũi thành 5 loại: (I) gãy di lệch sang bên (xương hay vách ngăn), (II) gãy nén, (III) gãy hỗn hợp, (IV) gãy không di lệch, (V) gãy không phân loại được (do phù nề). Trong nghiên cứu này, loại IV là “gãy không hoặc ít di lệch” do 2 trường hợp này đều cùng chung xử trí là cấp toa về theo dõi, không thực hiện nắn xương chính mũi. Tỉ lệ các loại gãy như sau: Gãy di lệch sang bên: 398 trường hợp (71,2%) chiếm chủ yếu. Gãy nén: 58 trường hợp (10,38%). Gãy hỗn hợp: 15 trường hợp (2,68%). Gãy không hoặc ít di lệch: 46 trường hợp (8,23%). Gãy không phân loại được (do phù nề nhiều): 42 trường hợp (7,51%). Hướng xử trí NXCM lúc nhập viện: 363 trường hợp (64,94%). Hẹn tái khám (do sưng nề nhiều): 100 trường hợp (17,89%). Cấp toa về (do GXCM không hoặc ít di lệch): 46 trường hợp (8,23%). Nhập khoa Mũi xoang (GXCM phức tạp): 28 trường hợp (5,01%). Chuyển viện (nghi ngờ chấn thương sọ não): 12 trường hợp (2,15%). Nhập Nhi tổng hợp: 6 trường hợp (1,07%). Từ chối điều trị: 4 trường hợp (0,72%). Mặc dù rằng số bệnh nhân gãy có di lệch là 471 trường hợp (84.26%) (loại trừ 88 trường hợp gãy không hoặc ít di lệch và gãy không phân loại được) nhưng số lượng bệnh nhân được nâng xương chính mũi ngay lập tức tại khoa Cấp cứu là 363 (chiếm 64,94%). Điều này là do một số trường hợp được chẩn đoán xác định gãy xương chính mũi nhưng tình trạng bệnh nhân không Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 76 phù hợp để nâng xương chính mũi ngay (Cao huyết áp, chảy máu nhiều, say rượu không hợp tác,...). Thời điểm nâng xương chính mũi Dưới đây là số liệu của chúng tôi về thời điểm nắn chỉnh của 363 bệnh nhân được nắn xương chính mũi ngay tính từ lúc xảy ra chấn thương. Bảng 2: Thời điểm nắn chỉnh xương chính mũi ở 363 bệnh nhân được nâng lúc vào khám. Thời điểm nắn chỉnh tính từ lúc chấn thương n=363 (%) Trong vòng 24h 174 47,93% Từ 1đến 3 ngày 135 37,19% 4 ngày đến dưới 10 ngày 54 14,88% ≥ 10 ngày 0 0% Phương pháp vô cảm Trong 363 trường hợp được nắn xương chính mũi, phương pháp vô cảm chủ yếu được dùng là gây tê: 359 trường hợp (98,9%), chỉ 4 trường hợp cần gây mê (1,1%). Hiệu quả điều trị nắn xương chính mũi trên quan điểm của bệnh nhân Chúng tôi chỉ ghi nhận kết quả từ 65 bệnh nhân đồng ý trả lời phỏng vấn qua điệnt thoại. (n=65). Sử dụng thang điểm 1 đến 5 để đánh giá. Điểm trung bình cho biến dạng mũi là 3,54 trước nắn chỉnh và 1,15 sau nắn chỉnh. Điểm trung bình cho độ thẩm mỹ là 4,01 trước nắn chỉnh và 1,29 sau nắn chỉnh. Điểm trung bình cho nghẹt mũi là 2,15 trước nắn chỉnh và 1,28 sau nắn chỉnh. Dùng phép kiểm chứng t-test phụ thuộc theo cặp ở 2 thời điểm trước và sau nắn chỉnh cho cả 3 yếu tố, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 thời điểm trước và sau nắn chỉnh cho cả 3 yếu tố trên. Bảng 3: So sánh điểm số hài lòng trước và sau nắn chỉnh. Biến số Trước nắn chỉnh Sau nắn chỉnh Khác biệt t p 95% CI Biến dạng mũi 3,54 ± 0,89 1,15 ± 0,36 2,38 ± 0,91 21,05 1,82x10 -30 2,15-2,61 Thẩm mỹ mũi 4,02 ± 0,94 1,29 ± 0,58 2,72 ± 1,09 20,01 3,03x10 -29 2,45-2,99 Nghẹt mũi 2,15 ± 1,3 1,27 ± 0,63 0,87 ± 1,53 4,6 2,03x10 -05 0,5-1,26 Qua phép kiểm chứng t-test phụ thuộc theo cặp ở 2 thời điểm trước và sau nắn chỉnh cho cả 3 yếu tố, chúng tôi có thể kết luận rằng phương pháp nắn chỉnh xương chính mũi đã cải thiện một cách có ý nghĩa tình trạng của bệnh nhân ở cả 3 yếu tố được phỏng vấn: độ biến dạng mũi, độ thẩm mỹ mũi và tình trạng nghẹt mũi với p < 0,001. Khi sử dụng cách xác định độ hài lòng bằng việc so sánh điểm sau nắn chỉnh của mỗi bệnh nhân với điểm trung bình trước nắn chỉnh ở mỗi yếu tố, chúng tôi nhận thấy chỉ có 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ biến dạng mũi và 1,5% bệnh nhân không hài lòng ở độ thẩm mỹ mũi, đặc biệt không có bệnh nhân nào không hài lòng về đường thở mũi. Kết quả này thật sự đáng khích lệ khi tỉ lệ bệnh nhân không hài lòng ở nghiên cứu chúng tôi thấp hơn hẳn khi so sánh với nghiên cứu của tác giả Terry Hung và cộng sự(4). Bảng 4: So sánh tỉ lệ không hài lòng ở từng yếu tố qua 2 nghiên cứu. Tỉ lệ Terry Hung và cs. Chúng tôi Tỉ lệ bệnh nhân không hài lòng ở độ biến dạng mũi 13% 1,5% Tỉ lệ bệnh nhân không hài lòng ở độ thẩm mĩ mũi 11% 1,5% Tỉ lệ bệnh nhân không hài lòng ở đường thở mũi 21% 0% Độ hài lòng của bệnh nhân về hình dạng và chức năng mũi qua bảng câu hỏi. Bảng 5: Độ hài lòng của bệnh nhân về hình dạng và chức năng mũi qua bảng câu hỏi. Hình dạng mũi (n=65) Chức năng mũi (n=65) n (%) n (%) Đẹp/ Tốt hơn trước 8 12,31% 3 4,62% Như lúc trước 44 67,69% 51 78,45% nhưng chấp nhận được 12 18,46% 9 13,85% Xấu/ Tệ hơn trước và muốn điều trị thêm 1 1.54% 2 3.08% Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 77 Nhận xét về hình dạng mũi và chức năng mũi hiện nay so với lúc trước khi bị tai nạn, đa số các bệnh nhân đều cho rằng mũi mình đẹp/tốt như lúc trước hoặc hơn lúc trước (80-83%). Kết quả khả quan này cũng ủng hộ cho việc lựa chọn nắn kín và gây tê tại chỗ là lựa chọn đầu tay khi các phương pháp này đơn giản, ít tốn kém mà hiệu quả điều trị vẫn ở mức cao. Tỉ lệ hài lòng ở nhóm bệnh nhân được phỏng vấn xét theo thời điểm nắn chỉnh. Bảng 6: Tỉ lệ hài lòng về hình dạng mũi ở nhóm bệnh nhân được phỏng vấn xếp theo thời điểm nắn chỉnh. Nắn trong vòng 24h kể từ lúc chấn thương (n=35) Nắn từ 1 đến 3 ngày kể từ lúc chấn thương (n=24) Nắn từ 4 đến 10 ngày kể từ lúc chấn thương (n=6) Đẹp hơn trước 6 (17,14%) 2 (8,33%) 0 Như lúc trước 23 (65,71%) 15 (62,5%) 6 (100%) Nhưng chấp nhận được 5 (14,29%) 7 (29,17%) 0 Xấu hơn trước Và muốn điều trị thêm 1 (2,86%) 0 (0%) 0 Pearson chi2(6) = 6,5375 Pr = 0,366 Bảng 7: Tỉ lệ hài lòng về chức năng mũi ở nhóm bệnh nhân được phỏng vấn xếp theo thời điểm nắn chỉnh. Nắn trong vòng 24h kể từ lúc chấn thương (n=35) Nắn từ 1 đến 3 ngày kể từ lúc chấn thương (n=24) Nắn sau 4 ngày kể từ lúc chấn thương (n=6) Tốt hơn trước 1 (2,86%) 2 (8,33%) 0 Như lúc trước 29 (82,6%) 17 (70,83%) 5 (83,33%) Nhưng chấp nhận được 4 (11,42%) 4 (16,67%) 1 (16,67%) Tệ hơn trước Và muốn điều trị thêm 1 (2,86%) 1 (4,17%) 0 Pearson chi2(6) = 2,1153 Pr = 0,909 Sử dụng phép kiểm Chi-square ở cả 2 bảng tỉ lệ hài lòng về hình dạng mũi và chức năng mũi hiện nay so với trước khi chấn thương theo thời điểm nắn chỉnh, chúng tôi đều nhận thấy giá trị p>0,05. Như vậy sự khác biệt về độ hài lòng của bệnh nhân sau nắn xương chính mũi ở các thời điểm nắn chỉnh khác nhau (trong vòng 24h, từ 1 đến 3 ngày, từ 4 đến 10 ngày) là không có ý nghĩa thống kê. Kết luận trên là phù hợp so với các y văn thế giới. Theo đó, thời gian 10 ngày được xem như là mốc mà sự phát triển các mô liên kết sợi ở đường gãy bắt đầu ngăn cản nắn xương chính mũi thành công. Cần lưu ý là không có bệnh nhân nào trong nghiên cứu được nắn chỉnh sau 10 ngày, do đó hiệu quả của việc nâng xương chính mũi sau 10 ngày kể từ lúc chấn thương không được đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi. KẾT LUẬN Chấn thương gãy xương chính mũi cũng như đa số các loại chấn thương gãy xương khác xảy ra chủ yếu chủ yếu ở nam giới (78,2%), tỉ lệ nam: nữ là 3,59, độ tuổi trẻ (15-30 tuổi) là độ tuổi thường gặp nhất (63,7%). Nguyên nhân gây ra gãy xương đứng hàng đầu là đả thương (36,9%) sau đó là tai nạn giao thông (29,7%). So với các nghiên cứu trong nước trước đó, tỉ lệ nguyên nhân do tai nạn giao thông có phần giảm nhưng tỉ lệ do đả thương vẫn còn cao, và cao hơn hẳn các nước khác. Ở nhóm nguyên nhân do tai nạn giao thông, tình huống gây ra tai nạn giao thông nhiều nhất là xe gắn máy đụng xe gắn máy (57,23%),