Khảo sát tỷ lệ hạ thân nhiệt và các yếu tố nguy cơ trong gây mê phẫu thuật ổ bụng

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hạ thân nhiệt và các yếu tố nguy cơ ở những bệnh nhân gây mê phẫu thuật ổ bụng. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tiền cứu. 101 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật ổ bụng lớn (> 120 phút), gây mê toàn diện được đưa vào nghiên cứu. Nhiệt độ trung tâm của cơ thể được đo ở thực quản và ghi nhận mỗi 15 phút cho đến khi cuộc phẫu thuật kết thúc. Các biến lâm sàng được xem như là yếu tố nguy cơ gây hạ thân nhiệt: tuổi, giới, BMI, thời gian gây mê phẫu thuật, kỹ thuật gây mê, ước lượng máu mất, số lượng và nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, và các biến chứng của hạ thân nhệt cũng được khảo sát. Kết quả: Tỷ lệ hạ thân nhiệt (< 36oC) trong gây mê phẫu thuật ổ bụng là 87,13%, đa số là hạ thân nhiệt nhẹ (84,16%). Nghiên cứu đã chứng minh thân nhiệt nam giới thấp hơn nữ giới, thân nhiệt ở bệnh nhân gây mê toàn thân phối hợp gây tê ngoài màng cứng thấp hơn gây mê toàn thân đơn thuần. Tăng số lượng dịch truyền, kéo dài thời gian gây mê – phẫu thuật, tăng thể tích CO2 bơm vào ổ bụng là những yếu tố nguy cơ gây hạ thân nhiệt. Giảm BMI, nhiệt độ phòng mổ, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ khí hô hấp là những yếu tố làm hạ thân nhiệt. Biến chứng của hạ thân nhiệt bào gồm: kéo dài thời gian rút NKQ và run lạnh sau mổ. Kết luận: Bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng lớn có nguy cơ hạ thân nhiệt trong mổ, đòi hỏi phải theo dõi nhiệt độ chặt chẽ.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tỷ lệ hạ thân nhiệt và các yếu tố nguy cơ trong gây mê phẫu thuật ổ bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 327 KHẢO SÁT TỶ LỆ HẠ THÂN NHIỆT VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT Ổ BỤNG Nguyễn Văn Chừng*, Phạm Thị Minh Thư**, Lê Văn Long** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hạ thân nhiệt và các yếu tố nguy cơ ở những bệnh nhân gây mê phẫu thuật ổ bụng. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tiền cứu. 101 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật ổ bụng lớn (> 120 phút), gây mê toàn diện được đưa vào nghiên cứu. Nhiệt độ trung tâm của cơ thể được đo ở thực quản và ghi nhận mỗi 15 phút cho đến khi cuộc phẫu thuật kết thúc. Các biến lâm sàng được xem như là yếu tố nguy cơ gây hạ thân nhiệt: tuổi, giới, BMI, thời gian gây mê phẫu thuật, kỹ thuật gây mê, ước lượng máu mất, số lượng và nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, và các biến chứng của hạ thân nhệt cũng được khảo sát. Kết quả: Tỷ lệ hạ thân nhiệt (< 36oC) trong gây mê phẫu thuật ổ bụng là 87,13%, đa số là hạ thân nhiệt nhẹ (84,16%). Nghiên cứu đã chứng minh thân nhiệt nam giới thấp hơn nữ giới, thân nhiệt ở bệnh nhân gây mê toàn thân phối hợp gây tê ngoài màng cứng thấp hơn gây mê toàn thân đơn thuần. Tăng số lượng dịch truyền, kéo dài thời gian gây mê – phẫu thuật, tăng thể tích CO2 bơm vào ổ bụng là những yếu tố nguy cơ gây hạ thân nhiệt. Giảm BMI, nhiệt độ phòng mổ, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ khí hô hấp là những yếu tố làm hạ thân nhiệt. Biến chứng của hạ thân nhiệt bào gồm: kéo dài thời gian rút NKQ và run lạnh sau mổ. Kết luận: Bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng lớn có nguy cơ hạ thân nhiệt trong mổ, đòi hỏi phải theo dõi nhiệt độ chặt chẽ. Từ khóa: hạ thân nhiệt, phẫu thuật ổ bụng, gây mê hồi sức, yếu tố nguy cơ. ABSTRACT SURVEY INCIDENCE OF HYPOTHERMIA AND RISK FACTORS FOR ANESTHESIA OF ABDOMINAL SURGERY Nguyen Van Chung, Pham Thi Minh Thu, Le Van Long * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 327 - 322 Objectives: To determine the risk factors and incidence of hypothermia in patients undergoing major abdominal surgeries. Methods: Prospective analysis. 101 patients undergoing major abdominal surgeries (> 120 mins), general anesthesia were admitted to the study. Oesophagus core body temperature was measured after induction of general aneasthesia and every 15 mins until the end of the operation. Clinical variables that were assessed as predictors of core body temperature included age, sex, body mass index (BMI), time of procedure, anesthesia technique, estimated blood loss, amount and temperature of intravenous fluids, operation room temperature, and potential hypothermia related complications were also examined. Results: Frequency of hypothermia (< 36oC) in major abdominal surgeries was 87.13%, mild-hypothermia was common (84.16%). The study demonstrated body temperature was lower signigficantly in male than female and in epidural combined general anesthesia than only general anesthesia (p<0.05). The advanced amount of intravenous fluids, time of procedure and aneasthesia, the volume of CO2 pneumoperitoneum are risk factors for hypothermia. The decreased BMI, temperature of operation room and intravenous fluids, temperature of * Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, ** Đại học Y Dược Huế Địa chỉ liên hệ : ThS Phạm Thị Minh Thư ĐT: 0989295100 Email: minhthu.dhyk@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 328 ventilated gases are associated with lower final body temperatures. The complications associated with hypothermia included delay of time to extubation and shiver at PACU. Conclustion: Patients undergoing major abdominal surgeries are at risk for development of intraoperative hypothermia and so, they have to be monitored temperature more carefully. Keywords: hypothermia, abdominal surgery, anesthesia. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật là phương pháp điều trị ngoại khoa, giữ vai trò quan trọng và vô cùng cần thiết trong y học hiện nay. Một cuộc mổ có thể dài, ngắn, đơn giản hay phức tạp khác nhau tuỳ theo tính chất của căn bệnh, nhưng việc theo dõi, hồi sức bệnh nhân trong mổ luôn đòi hỏi phải thực hiện một cách toàn diện và chặt chẽ. Tuy nhiên có một trị số mà những người làm công tác gây mê hồi sức ít quan tâm và thường bị bỏ qua đó là thân nhiệt của bệnh nhân trong mổ. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ hạ thân nhiệt của bệnh nhân trong gây mê phẫu thuật ổ bụng. 2. Xác định mối liên quan giữa thân nhiệt với các yếu tố nguy cơ như: loại phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, số lượng dịch truyền, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, 3. Đánh giá các hậu quả của hạ thân nhiệt. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu và lấy số liệu tại khoa Phẫu thuật- Gây mê hối sức – cở sở 1, BV. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh trong thời gian từ 9/2009 đến 01/2010. Tiêu chuẩn chọn bệnh Tất cả bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật ổ bụng lớn (> 120 phút), gây mê toàn diện được đưa vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân có thân nhiệt lúc mới vào phòng mổ > 38oC hoặc có dùng thuốc hạ sốt trước đó, trong quá trình theo dõi thân nhiệt trong mổ của bệnh nhân có lúc > 38oC. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Phân tích tiền cứu Phương pháp thực hiện Trong suốt quá trình gây mê – phẫu thuật, tất cả bệnh nhân đều được che kín bằng khăn phẫu thuật, gây mê toàn thân + gây tê ngoài màng cứng, tiền mê: fentanyl 2μg/kg + midazolam 1mg , khởi mê: fentanyl 1μg/kg, propofol 2,5 mg/kg, esmeron 0,6 mg/kg, đặt nội khí quản, thở máy, duy trì mê: Foran 2% hoặc Sevo 2% + oxy 2 l/ph. Nhiệt độ trung tâm được đo tại vị trí 1/3 dưới của thực quản, nhiệt độ khí hô hấp đo ở vị trí phía trước ống NKQ, đo liên tục qua monitoring và ghi nhận mỗi 15phút/lần cho đến khi kết thúc quá trình gây mê – phẫu thuật. Các biến số khác được ghi nhận vào cuối cuộc mổ. Thời gian rút nội khí quản tính từ lúc tắt thuốc mê cho tới lúc rút ống NKQ, tình trạng run lạnh được theo dõi và ghi nhận từ phòng mổ cho đến 2g sau mổ. Trong mổ, khi thân nhiệt bệnh nhân < 34oC thì tiến hành ủ ấm nửa trên cơ thể bằng mền hơi. Hạ thân nhiệt được định nghĩa khi nhiệt độ cơ thể < 36oC(2,4,6,11,14,15,16,17) Theo hội gây mê Hoa Kỳ và các tác giả khác(4,6), hạ thân nhiệt được chia làm 3 mức độ: Nhẹ: 36oC – 34oC; Trung bình: 34oC – 32oC; Nặng: < 32oC. Thu thập số liệu Thân nhiệt, tuổi, giới tính, BMI, nhiệt độ phòng mổ, nhiệt độ dịch truyền, số lượng dịch truyền, thời gian gây mê phẫu thuật, phương pháp phẫu thuật (mổ mở, nội soi), thể tích CO2 bơm vào ổ bụng, thời gian rút nội khí quản, tình trạng run lạnh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 329 Xử lý và phân tích số liệu Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 17.0 để xử lý số liệu. Tất cả các khác biệt có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0,05. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Giới (Nam/Nữ) 56/45 Tuổi 53,25 + 14,91 BMI (kg/m2) 21,71 + 3,66 ASA (I/II/III) 5/76/20 Thời gian gây mê (phút) 202,95 + 63,23 Thời gian phẫu thuật (phút) 179,95 + 64,64 Số lượng dịch truyền (ml) 1770,35 + 75,60 Số lượng dịch rửa ổ bụng (ml) 444,50 + 86,04 Số lượng máu mất (ml) 185,00 + 198,92 Nhiệt độ dịch truyền (oC) 24,05 + 0,14 Nhiệt độ dịch rửa ổ bụng (oC) 30,94 + 2,28 Thời gian nằm viện (ngày) 12,62 + 0,59 Phương pháp vô cảm (mê NKQ/mê NKQ + tê NMC) 38/63 Phương pháp phẫu thuật (mổ mở/nội soi) 45/56 SỰ BIẾN ĐỔI THÂN NHIỆT 32.5 33.0 33.5 34.0 34.5 35.0 35.5 36.0 36.5 37.0 37.5 T1 5 T3 0 T4 5 T6 0 T1 g1 5 T1 g3 0 T1 g4 5 T2 g T2 g1 5 T2 g3 0 T2 g4 5 T3 g T3 g1 5 T3 g3 0 T3 g4 5 T4 g T4 g1 5 T4 g3 0 T4 g4 5 T5 g T5 g1 5 T5 g3 0 T5 g4 5 T6 g Thời gian (phút) Th ân n hi ệt (o C ) Biều đồ 1: Sự biến đổi thân nhiệt trong quá trình gây mê – phẫu thuật Nhận xét: Thân nhiệt bệnh nhân có xu hướng giảm dần theo thời gian và tăng lên vào cuối cuộc mổ. Đa số bệnh nhân hạ thân nhiệt (<36 oC) sau 45 phút kể từ lúc gây mê – phẫu thuật. Bảng 2: Tỷ lệ hạ thân nhiệt trong quá trình gây mê – phẫu thuật Số lượng Thân nhiệt N Tỷ lệ % > 36 oC 13 12,87 % 35 – 35,9 55 54,46 % 34 – 34,9 30 29,70 % < 36 oC < 34 3 2,97 % 87,13% Tổng 101 100% Nhận xét: Tỷ lệ hạ thân nhiệt (< 36oC) chiếm tỷ lệ cao 87,13%. Không có trường hợp nào hạ thân nhiệt mức độ nặng (< 32 oC). Bảng 3: Hạ thân nhiệt và các yếu tố liên quan Các yếu tố liên quan đến hạ thân nhiệt Tuổi p > 0,05 Giới p < 0,05 ASA p > 0,05 BMI p < 0,05 To = 0,043 x BMI + 34,298 Số lượng dịch truyền p < 0,05 To = - 0,0001 x V + 35,756 Nhiệt độ dịch truyền p < 0,05 To = 0,164 x to + 31,290. Nhiệt độ phòng mổ p < 0,05 To = 0,148 x to + 31,895 Thời gian gây mê p < 0,05 To = - 0,004 x t + 35,962 Loại thuốc gây mê hô hấp (Isofluaran/Sevofluaran) p > 0,05 Phương pháp vô cảm (Mê NKQ/Mê NKQ + tê NMC) p < 0,05 Nhiệt độ khí hô hấp < thân nhiệt Thời gian phẫu thuật p < 0,05 To = - 0,003 x t + 35,819 Phương pháp phẫu thuật (mổ mở hoặc nội soi) p > 0,05 Thể tích CO2 trong mổ nội soi p < 0,05 To = - 0,001 x V CO2 + 35,613 Rửa ổ bụng trong mổ p > 0,05 Nhận xét: Các yếu tố như giới tính, BMI, số lợng dịch truyền, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, thời gian gây mê – phẫu thuật, phương pháp vô cảm, thể tích CO2 bơm vào ổ bụng, nhiệt độ khí hô hấp là những yếu tố có ảnh hưởng đến thân nhiệt của bệnh nhân. Bảng 4: Hậu quả của hạ thân nhiệt Các yếu tố liên quan đến hạ thân nhiệt Lạnh run sau mổ (tỷ lệ 43,56%) p < 0,05 Thời gian rút nội khí quản p < 0,05 Số lượng máu mất p > 0,05 Số lượng Hemoglobin p > 0,05 Thời gian Quick (TQ) p > 0,05 Thời gian Cephlin – Kaolin (TCK) p > 0,05 Nhận xét: Hạ thân nhiệt gây lạnh run sau mổ và kéo dài thời gian rút NKQ (p < 0,05). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 330 BÀN LUẬN Tỷ lệ hạ thân nhiệt và sự biến đổi thân nhiệt trong quá trình gây mê – phẫu thuật ổ bụng Trong quá trình gây mê toàn diện, trung tâm điều nhiệt bị ức chế, các quá trình sản sinh nhiệt bị giảm, do đó khả năng điều chỉnh sự thay đổi thân nhiệt rất dễ bị tác động bởi các yếu tố nguy cơ. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ hạ thân nhiệt là 87,13% (Bảng 2), đa số là hạ thân nhiệt nhẹ (84,16%). Vì lý do y đức nên chúng tôi không để thân nhiệt bệnh nhân xuống quá thấp, khi thân nhiệt bệnh nhân < 34oC, chúng tôi tiến hành ủ ấm bằng mền hơi đắp nửa trên cơ thể, do đó trong nghiên cứu này không có bệnh nhân hạ thân nhiệt nặng, chỉ có 3 bệnh nhân hạ thân nhiệt trung bình (<34oC) chiếm 2,97%. Theo Panagiotis Kiekkas và cs tỷ lệ hạ thân nhiệt trong phẫu thuật chỉnh hình là 73,5%(16), Suneerat Kongsayreepong và cs, tỷ lệ hạ thân nhiệt sau mổ chung là 57,1%(17), Nishant Agrawal là 60 % trong phẫu thuật đầu - cổ(15). So với các tác giả này tỷ lệ hạ thân nhiệt của chúng tôi khá cao vì chúng tôi chọn nghiên cứu trên đối tượng có thời gian phẫu thuật > 2 giờ chứ không phải nghiên cứu trên tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật. Hơn nữa, ở nước ta còn nhiều hạn chế, các phòng mổ của mình hầu như không có hệ thống sưởi ấm cho tất cả bệnh nhân, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này nên tỷ lệ hạ thân nhiệt ở các bệnh viện Việt Nam còn cao. Biểu đồ 1 biểu diễn sự biến đổi thân nhiệt trong quá trình gây mê phẫu thuật. Sau khởi mê 15 phút, thân nhiệt bệnh nhân giảm 0,51oC. Trong 1 giờ đầu, thân nhiệt giảm nhiều nhất (1,11oC), giờ thứ 2 giảm tiếp 0,41oC rồi giảm từ từ trong các giờ tiếp theo. Nhiệt độ thấp nhất trong quá trình gây mê – phẫu thuật là vào thời điểm 4 giờ 45 phút, sau đó nhiệt độ tăng lên dần. Nghiên cứu của Hasegawa(10), Negishi và cộng sự(13) cho thấy thân nhiệt giảm 1,9 + 0,5 oC trong 2 giờ đầu sau gây mê - phẫu thuật, các tác giả Hoàng Trọng Nam(1), Daniel Sessler(5) cũng cho kết quả tương tự. Kết quả này phù hợp với sinh lý trong gây mê. Trong điều kiện bình thường, nhiệt lượng cơ thể phân phối không bằng nhau, điều hoà nhiệt bằng cách ổn định trương lực của thành mạch để duy trì sự chênh lệch giữa nhiệt độ trung ương và ngoại biên. Gây mê toàn diện làm giảm ngưỡng điều hoà thân nhiệt bằng trương lực thành mạch do mở các cầu nối tĩnh mạch và giãn mạch. Kết quả dẫn đến hiện tượng tái phân bố nhiệt lượng cơ thể từ trung tâm ra ngoại biên, vì thế thân nhiệt giảm 1 – 1,5oC trong giờ đầu gây mê. Ngoài ra, gây mê toàn diện cũng làm mất đi cơ chế sinh nhiệt do run nên làm giảm nhiệt lượng cơ thể đáng kể. Vào giai đoạn cuối cuộc mổ, thân nhiệt của một số bệnh nhân tăng lên đôi chút. Điều này cũng phù hợp với sinh lý gây mê vì lúc này thuốc mê đã được giảm, bệnh nhân có sự hồi tỉnh, các phản xạ điều nhiệt được hồi phục một phần và bắt đầu có các phản xạ sinh nhiệt. Các yếu tố liên quan đến hạ thân nhiệt Trong quá trình gây mê phẫu thuật, thân nhiệt bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh nam giới có thân nhiệt thấp hơn nữ giới, những bệnh nhân gây mê toàn diện cân bằng đơn thuần ít bị hạ thân nhiệt hơn so với những bệnh nhân có phối hợp tê ngoài màng cứng. Đồng thuận với ý kiến của chúng tôi có Suneerat Kongsayreepoong và cộng sự(17). Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố liên quan thuận với thân nhiệt gồm có BMI, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, nhiệt độ khí thở. Nghĩa là khi các yếu tố này tăng lên thì thân nhiệt của bệnh nhân cũng tăng theo. Ngược lại, các yếu tố sau lại liên quan nghịch với thân nhiệt: số lượng dịch truyền, thời gian gây mê – phẫu thuật, thể tích thán khí (CO2). Khi các yếu tố này tăng lên thân nhiệt của bệnh nhân giảm xuống. Nhiệt độ khí hô hấp luôn nhỏ hơn thân nhiệt, chứng tỏ bệnh nhân bị mất một lượng nhiệt đáng kể qua đường hô hấp qua cơ chế truyền nhiệt trực tiếp. Nhiều tác giả như Bush HL(3), Frank Steven M(9) cho rằng bệnh nhân càng lớn tuổi thì nguy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 331 cơ hạ thân nhiệt càng cao, theo Nishant Agrawal và cs nếu tăng 10 tuổi thì sẽ giảm 0,15oC(15). Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận có mối liên quan giữa tuổi và thân nhiệt, có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi có phân bố tuổi chưa đa dạng và đồng đều giữa các nhóm tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Hoàng Trọng Nam(1), Fernando J Abelha(7), Flores Maldonado A(8), Panagiotis Kiekkas(161) và cộng sư. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố như ASA, loại thuốc mê hơi, phương phẫu thuật, rửa ổ bụng trong mổ không ảnh hưởng đến thân nhiệt của bệnh nhân. Hậu quả của hạ thân nhiệt Tỷ lệ run lạnh sau mổ là 43,56%, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với hạ thân nhiệt trong mổ (p < 0,05). Panagiotis Kiekkas(16) cũng ghi nhận có mối liên quan này. Nguyên nhân gây run lạnh sau mổ phần lớn do hạ thân nhiệt trong quá trình gây mê phẫu thuật. Trong mổ, dưới tác dụng của gây mê toàn diện, trung tâm điều nhiệt bị ức chế làm run lạnh không phát sinh. Sau mổ, trung tâm điều hoà nhiệt được phục hồi nên run lạnh xuất hiện. Run lạnh sau mổ còn liên quan với dãn mạch và là một trong những nguyên nhân gây đau sau mổ. Trong quá trình gây mê, các thuốc mê làm giảm chuyển hoá sinh nhiệt, bệnh nhân bị hạ thân nhiệt góp phần làm chậm quá trình đào thải thuốc, làm chậm thức tỉnh sau gây mê. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhóm bệnh nhân hạ thân nhiệt có thời gian rút NKQ dài hơn nhóm không bị hạ thân nhiệt (p < 0,05). Đồng thuận với chúng tôi có Lenhardt(12) và Nishant Agrawal(15). Do đó hạn chế hạ thân nhiệt trong mổ sẽ giúp bệnh nhân mau tỉnh, rút ngắn thời gian lưu NKQ, tiết kiệm được thời gian và nhân lực chăm sóc bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh. KẾT LUẬN Qua khảo sát tỷ lệ hạ thân nhiệt và các yếu tố nguy cơ trong gây mê phẫu thuật ổ bụng, chúng tôi rút ra được các kết luận: Tỷ lệ hạ thân nhiệt và mức độ hạ thân nhiệt trong gây mê phẫu thuật ổ bụng - Tỷ lệ hạ thân nhiệt (< 36oC) : 87,13% - Mức độ hạ thân nhiệt: + hạ thân nhiệt nhẹ (34 - 36oC): 84,16% + hạ thân nhiệt trung bình (< 34oC): 2,97% - Biến đổi thân nhiệt theo thời gian: Thân nhiệt giảm nhanh nhất trong giờ đầu tiên và đạt thấp nhất sau 4 giờ 45 phút. Các yếu tố liên quan đến hạ thân nhiệt - Nam giới hạ thân nhiệt nhiều hơn nữ giới - Gây tê NMC phối hợp gây mê toàn diện gây hạ thân nhiệt nhiều hơn gây mê toàn diện đơn thuần. - Các yếu tố liên quan thuận với thân nhiệt: BMI, nhiệt độ dịch truyền, nhiệt độ phòng mổ, nhiệt độ khí thở. - Các yếu tố liên quan nghịch với thân nhiệt: số lượng dịch truyền, thời gian gây mê – phẫu thuật, thể tích thán khí (CO2). Các hậu quả của hạ thân nhiệt - Run lạnh sau mổ. - Kéo dài thời gian hồi tỉnh và rút nội khí quản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Trọng Nam, Hồ Khả Cảnh (2009). “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ gây giảm thân nhiệt trong mổ ở các bệnh nhân dưới gây mê nội khí quản”. Luận văn bác sĩ y học, Đại học Y Dược Huế. 2. Andrzejowski J, Hoyle J, Eapen G, Turnbull D (2008). “ Effect of prewarming on post – induction core temperature and the incidence of inadvertent perioperative hypothermia in patients undergoing general anaesthesia”. British Journal of Anaesthesia, 101 (5), pp. 627-631. 3. Bush HL, Hydo LJ, Fischer E, Fantini GA, Silan MF, Barie PS (1995). “Hypothermia during elective abdominal aortic aneurysm repair the high price of avoidable morbidity”. British Journal of Anaesthesia, 21, pp. 392 – 400. 4. Charles E. Smith, Eldarn Soreide (2005). “ Hypothermia in Trauma Victims”. American Society of Anesthesiologists, Newsletter, 69 (11), pp.76 – 81. 5. Daniel I. Sessler (1997). “ Mild Perioperative Hypothermia”. New England Journal of Medicine NEJM, vol 336, number 24, pp. 1730 – 1737. 6. Dimitri Guvakov, Stuart Weiss, Albert Cheung (2008). “ Hypothermia”. Physicians’ Information and Education Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 332 Resource (PIER), American College of Physicians, Mall West, Phyladelphia, USA, pp. 487 – 529. 7. Fernando J Abelha, Maria A Castro, Aida M Neves, Nuno M Landeiro, Cristina C Santos (2005). “Hypothermia in a surgical intensive care unit”. BMC Anesthesiology, vol 5 (7), pp. 1471 – 2253. 8. Flores Maldonado A, Guzmán Llanez Y, Castaneda Zarate S, Pech Colli J, Alvarez Nemegyei J, Cervera Saenz M, Canto Rubio A (1997). “Risk factors for mild intraoperative hypothermia”. Arch Med Res, 28 (4), pp. 587 – 590. 9. Frank Stevent M, Shir Yoram, Raja Srinivasa N, Fleisher Lee A, Beattie Charles (1994). “Core Hypothermia and Skin – surface Temperature Gradient: Epidural Versus General Anesthesia and the Effects of Age”. Anesthesiology, 80 (3), pp. 623 – 634. 10. Hasegawa K, et al (2003). “ The efficacy of cacbon – fiber resistive – heating in prevention of core hypothermia during major abdominal surgery”. Masui, 52 (6), pp. 636 – 641. 11. Karalapillai D, Story D.A, Calzavacca P, Licari E, Lui Y. K, Hart G. K (2009). “ Inadvertent hypothermia and mortality in postoperative intensive care patients: retrospective audit of 50 patients”. AnesthesiaNow, 64 (9), pp. 968 – 972. 12. Lenhardt Rainer, Marker Elvine, Goll Veronika, Tschernich Heinz, Kurz Andrea, Sessler Daniel I, Narzt Edith, Lackner Franz (1997). “ Mild Intraoperative Hypothermia Prolongs Postanesthetic Recovery ”. Anesthesiology, 87 (6), pp. 1318 –
Tài liệu liên quan