Mục đích: Xác định tỉ lệ liệt mặt sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 132 bệnh nhân có bướu hỗn hợp tuyến mang tai, kích thước bướu
nhỏ hơn 4cm được phẫu thuật tại Khoa Ngoại 3, Bệnh Viện Ung Bướu từ tháng 4/2010 đến tháng 1/2014. Chỉ
định cắt một phần thùy nông tuyến mang tai cho các bướu có kích thước nhỏ hơn 4cm.
Kết quả: Với thời gian theo dõi ít nhất 6 tháng, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau phẫu thuật chiếm 34,8%.
Tỉ lệ liệt thần kinh mặt theo kích thước bướu là 20%(bướu ≤ 2cm) so với 37,9%(bướu > 2cm), p=0,005; theo số
nhánh thần kinh mặt bóc tách là 19,1%(2 nhánh), 30%(3 nhánh), 60% (4 nhánh), p=0,007.
Kết luận: Khoảng 1/3 trường hợp phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai có liệt thần kinh mặt
tạm thời sau phẫu thuật. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt sau phẫu thuật có liên quan đến kích thước bướu và việc bóc tách
nhiều nhánh thần kinh mặt trong lúc phẫu thuật.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liệt mặt sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 143
LIỆT MẶT SAU PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN THÙY NÔNG
TUYẾN MANG TAI
Nguyễn Hữu Phúc*
TÓM TẮT
Mục đích: Xác định tỉ lệ liệt mặt sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 132 bệnh nhân có bướu hỗn hợp tuyến mang tai, kích thước bướu
nhỏ hơn 4cm được phẫu thuật tại Khoa Ngoại 3, Bệnh Viện Ung Bướu từ tháng 4/2010 đến tháng 1/2014. Chỉ
định cắt một phần thùy nông tuyến mang tai cho các bướu có kích thước nhỏ hơn 4cm.
Kết quả: Với thời gian theo dõi ít nhất 6 tháng, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau phẫu thuật chiếm 34,8%.
Tỉ lệ liệt thần kinh mặt theo kích thước bướu là 20%(bướu ≤ 2cm) so với 37,9%(bướu > 2cm), p=0,005; theo số
nhánh thần kinh mặt bóc tách là 19,1%(2 nhánh), 30%(3 nhánh), 60% (4 nhánh), p=0,007.
Kết luận: Khoảng 1/3 trường hợp phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai có liệt thần kinh mặt
tạm thời sau phẫu thuật. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt sau phẫu thuật có liên quan đến kích thước bướu và việc bóc tách
nhiều nhánh thần kinh mặt trong lúc phẫu thuật.
Từ khóa: Liệt thần kinh mặt, cắt một phần thùy nông tuyến mang tai.
ABSTRACT
TRANSIENT FACIAL NERVE DYSFUNCTION AFTER PARTIAL SUPERFICIAL PAROTIDECTOMY
Nguyễn Hữu Phúc* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 143 - 147
Objective: To determine facial nerve dysfunction rate after partial superficial parotidectomy.
Material and Method: A case series prospective study of 132 operations for pleomorphic adenoma of the
parotid gland treated at Surgery Deparment N03, HCM City Oncology Center from April, 2010 to Jan, 2014. The
partial superficial parotidectomy was indicated for tumor size <4cm.
Results: The transient facial nerve dysfunction was detected in 34.8% after partial superficial parotidectomy.
Transient facial nerve dysfunction rate according to tumour size were 20% (tumour size ≤2cm) compared with
37.9%(tumour size >2cm), p=0.005; according to the number of branches of facial nerve were 19.1%(2 branches),
30%(3 branches), 60%(4 branches), p=0.007.
Conclusion: One-third of patients undergoing partial superficial parotidectomy had transient facial nerve
dysfunction after surgery. The transient facial nerve dysfunction related in tumour size and dissection many
branches of facial nerve.
Keywords: Facial nerve dysfunction, partial superficial parotidectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu hỗn hợp là bướu lành của tuyến nước
bọt, phát triển chậm thường gặp ở tuyến mang
tai. Phần lớn bướu có kích thước dưới 4cm, ở
thùy nông tuyến mang tai. Bướu không có vỏ
bao thật, có nhiều chồi giống như ngón tay thâm
nhập vào mô tuyến nước bọt bình thường xung
quanh. Trong những năm gần đây, điều trị bướu
hỗn hợp tuyến mang tai đã thay đổi từ cắt tuyến
mang tai toàn phần, cắt thùy nông tuyến mang
tai thành cắt một phần thùy nông tuyến mang
tai. Mục đích của phẫu thuật này là làm giảm tỉ
lệ thần kinh mặt sau mổ nhằm nâng cao chất
* Bộ môn Ung thư, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Hữu Phúc ĐT: 0905821998 Email: phucquyen76@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 144
lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tình trạng liệt mặt sau phẫu thuật
cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong
điều trị bướu hỗn hợp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các trường hợp cắt một phần tuyến mang tai
lần đầu được thực hiện phẫu thuật tại Khoa
Ngoại 3 Bệnh viện Ung Bướu có giải phẫu bệnh
sau mổ là bướu hỗn hợp từ tháng 4/2010-01/2014.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả loạt ca
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân có bướu tuyến mang tai có
kích thước nhỏ hơn 4cm.
Bướu tuyến mang tai được thăm khám lâm
sàng, chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA), quan
sát đại thể trong lúc phẫu thuật và có kết quả giải
phẫu bệnh sau mổ là bướu hỗn hợp được lựa
chọn vào lô nghiên cứu.
Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cửu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có bướu tuyến mang tai đã được
phẫu thuật trước đó.
Bướu tuyến mang tai có giải phẫu bệnh
không phải là bướu hỗn hợp.
Quy trình nghiên cứu
Chọn đường rạch da: Đường căng da mặt,
đường Blair tùy thuộc vị trí, kích thước của
bướu, độ tuổi, giới tính của bệnh nhân.
Bóc tách thân chính thần kinh mặt.
Xác định vị trí bướu: Trên nhánh thái dương
mặt, giữa nhánh thái dương mặt và cổ mặt, dưới
nhánh cổ mặt.
Thực hiện phẫu thuật cắt một phần tuyến
mang tai với diện cắt bên cách bướu 1cm.
Cắt lạnh bờ diện cắt.
Tái tạo khuyết hổng sau phẫu thuật bằng vạt
cơ ức đòn chủm, hệ thống cân nông vùng cổ
hoặc kết hợp vạt cơ ức đòn chủm và hệ thống
cân nông vùng cổ.
Theo dõi sự hồi phục của tình trạng liệt mặt
tạm thời sau phẫu thuật.
Đánh giá mức độ liệt mặt theo thang điểm
House-Brackmann gồm 6 mức độ:
I. Bình thường
II. Liệt mặt nhẹ
III. Liệt mặt trung bình
IV. Liệt mặt trung bình-nặng
V. Liệt mặt mức độ nặng
VI. Liệt hoàn toàn nửa mặt
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
132 trường hợp phẫu thuật cắt một phần
tuyến mang tai được thực hiện lần đầu tại Bệnh
viện Ung Bướu từ tháng 04/2010-01/2014.
Bảng 1: Đặc điểm nhóm nghiên cứu.
Tổng số ca 132 ca
Tuổi trung bình 44,5 tuổi (14-75 tuổi)
Giới Nữ: 97 ca (73,5%)
Nam: 35 ca (26,5%)
Vị trí bướu Phải: 68ca (51,6%)
Trái: 64 ca (48,4%)
Thời gian có bướu 32,4 tháng (1-120 tháng)
Kích thước bướu 2,3 cm (1-3,8cm)
Vị trí bướu lúc phâu thuật
Trên nhánh thái dương mặt 6 ca (2,6%)
Giữa nhánh thái dương mặt và
cổ mật
42 ca (31,8%)
Dưới nhánh cổ mặt 84 ca (63,6%)
Thời gian phẫu thuật 64 phút (40-140 phút)
Đường rạch da
Đường căng da mặt 10 ca (7,6%)
Đường Blair 122 ca (92,4%)
Tạo hình khuyết hồng sau phẫu
thuật
Không tạo hình 4 ca (3%)
Vạt cơ ức đòn chủm 9 ca (6,8%)
Vạt hệ thống cân nông vùng cổ 7 ca (5,3%)
Vạt cơ ức đòn chủm+ hệ thống
cân nông vùng cổ
112 ca (84,8%)
Thời gian theo dõi Ít nhất 6 tháng
Cắt lạnh 100% trường hợp có kết quả diện
cắt không có tế bào bướu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 145
Bảng 2: Phân độ liệt mặt theo tiêu chuẩn House –
Brackmann.
Bình thường 86 ca (65,2%)
Liệt mặt trung bình 33 ca (25%)
Liệt mặt trung bình-nặng 9 ca (6,8%)
Liệt mặt mức độ nặng 4 ca (3%)
Liệt hoàn toàn nửa mặt 0
Bảng 3: Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến liệt mặt
sau phẫu thuật.
Biến số Liệt mặt tạm thời Trị số p
Có Không
Tuổi
< 60 tuổi 44 (35,5%) 80 (64,5%) 0,386
> 60 tuổi 2 (25%) 6 (75%)
Giới
Nữ 34 (35,1%) 63 (64,9%) 0,74
Nam 11 (31,4%) 24 (68,6 %)
Thời gian khởi bệnh
< 2 năm 25 (30,1%) 58 (69,9%) 0,214
> 2 năm 20 (40,8%) 29(59,2%)
Kích thước bướu
≤ 2 cm 9 (20%) 36 (80%) 0,005
> 2 cm 33 (37,9%) 52 (59,7%)
Thời gian phẫu thuật
< 90 phút 25(30,9%) 56 (69,1%) 0,341
> 90 phút 21(41,2%) 30 (58,8%)
Số nhánh thần kinh mặt bóc tách
2 nhánh thần kinh
mặt
9 (19,1%) 38(80,9%) 0,007
3 nhánh thần kinh
mặt
15 (30%) 35 (70%)
4 nhánh thần kinh
mặt
21 (60%) 14(40%)
Thời gian hồi phục liệt mặt trung bình 11
tuần (4 tuần -24 tuần).
BÀN LUẬN
Bướu hỗn hợp là loại bướu lành thường gặp
chiếm 45-60% trong tất cả các loại bướu của
tuyến nước bọt (2,14,18). Khoảng 80% các bướu hỗn
hợp xuất phát từ tuyến mang tai (2). Bướu hỗn
hợp tuyến mang tai được chẩn đoán ở mọi nhóm
tuổi và có khuynh hướng tiến triển chậm kéo dài
nhiều năm. Tuổi trung bình lúc chẩn đoán
thường là 46-51tuổi (12,6). Phụ nữ thường bị nhiều
hơn nam giới(2,19). Bướu tuyến hỗn hợp thường là
một khối bướu di động, giới hạn rõ nằm ở thùy
nông khoảng 80-87%(1,21). Khoảng 80% bướu hỗn
hợp thùy nông nằm ở cực dưới của tuyến mang
tai, ít thấy ở thuỳ sâu và mô tuyến mang tai
phụ(5,1). Ở thời điểm phẫu thuật, phần lớn bướu
hỗn hợp có kích thước nhỏ hơn 4cm. Trong một
loạt nghiên cứu 280 trường hợp bướu chỉ
khoảng 6% bướu có kích thước lớn hơn 4cm(21).
Bướu có khuynh hướng tái phát nếu điều trị
không đầy đủ và có thể chuyển dạng ác tính.
Bướu hỗn hợp tuyến mang tai trong nghiên
cửu chúng tôi có đặc điểm tương tự với các
nghiên cứu khác về giới, tuổi. Tuổi trung bình
44,5 tuổi, đa phần là nữ giới. Phần lớn bướu
thường gặp ở thùy nông tuyến mang tai có kích
thước bướu trung bình 2,3cm.
Về diện cắt phẫu thuật trong điều trị bướu
hỗn hợp, tác giả Iizuka và Ishikawa(3) khuyên
nên cắt cách vỏ bao bướu 2cm ngoại trừ ở
những chỗ bướu nằm gần thần kinh mặt. Năm
1999, tác giả Witt đề nghị diện cắt đối với
bướu hỗn hợp là 2cm. Năm 2005, trong công
trinh nghiên cứu(17), tác giả so sánh diện cắt
bướu 2cm và diện cắt cách bướu 1cm, tác giả
đi đến kết luận không có sự khác biệt giữa 2
nhóm về tỉ lệ tái phát, tình trạng liệt thần kinh
tạm thời, hội chứng Frey giữa 2 nhóm, tác giả
Witt đề nghị nên cắt cách vỏ bao bướu 1cm.
Tác giả Roh(13) năm 2007 trong một thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên, tác giả đề nghị nên căt
cách bướu từ 0,5- 1cm. Tác giả Nicolao(8) đề
nghị cắt cách bướu 5mm đối với tất cả trường
hợp bướu lành tuyến mang tai. Tác giả Orita(10)
nghiên cứu mô học 108 trường hợp bướu hỗn
hợp trong 10 năm, tác giả nhận định hầu hết
sang thương vệ tinh nằm gần sát bướu có kích
thước trung bình 5mm, khoảng cách từ bướu
đến sang thương vệ tinh là 4mm. Như vậy
việc chọn lựa diện cắt bên cách bướu 1cm là
an toàn và được coi là tiêu chuẩn trong các
nghiên cứu hiện nay trong việc chọn lựa cắt
một phần thùy nông tuyến mang tai trong
điều trị bướu hỗn hợp.
Việc bóc tách cắt một phần tuyến mang tai,
nhu mô tuyến mang tai ít được bóc tách hơn,
chỉ bóc tách các nhánh thần kinh đi cùng với
mô bướu làm giảm tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 146
thời thời sau mổ. Kết quả phân tích gộp của
tác giả Witt(15) nhận thấy tỉ lệ liệt thần kinh tạm
thời của cắt thùy nông tuyến mang tai là 25,6%
(1553 bệnh nhân từ 13 nghiên cứu, liệt thần
kinh mặt vĩnh viễn chiếm 1,9% (2165 bệnh
nhản từ 21 nghiên cứu). Kết quả phân tích gộp
cũng ghi nhận tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời
sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến
mang tai là 17,9% (793 bệnh nhân từ 8 nghiên
cứu), tỉ lệ liệt thần kinh mặt vĩnh viễn sau
phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến
mang tai là 0,2%. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời chiếm
34,8% sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông
tuyến mang tai, chủ yếu liệt mặt ở mức độ
nhẹ. Phần lớn các trường hợp liệt thần kinh
tạm thời ở mức độ nhẹ và mức độ trung bình
theo thang điểm của House- Brackmann.
Khoảng 25% bệnh nhân có liệt mặt theo thang
điểm House-Brackmann độ II, 6,8% bệnh nhân
có House-Brackmann độ III và 3% bệnh nhân
có House-Brackmann độ IV. Tác giả Roh(13) ghi
nhận trong nghiên cứu phần lớn các trường
hợp liệt thần kinh mặt tạm thời sau mổ ảnh
hưởng chủ yếu đến nhánh bờ hàm dưới, theo
thang điểm House- Brackmann độ II và độ III.
Trong 59 trường hợp cắt một phần tuyến
mang tai, tác giả Witt ghi nhận 50 trường hợp
có House-Brackmann độ I, 5 trường hợp có
House-Brackmann độ II, 3 trường hợp House-
Brackmann độ III và 1 trường hợp House-
Brackmann độ IV. Năm 2009, chúng tôi tổng
kết các trường hợp cắt thùy nông tuyến mang
tai ghi nhận tỉ lệ liệt thần kinh mặt chiếm
74,1%. Như vậy so với phẫu thuật cắt thùy
nông tuyến mang tai, tỉ lệ liệt thần kinh mặt
tạm thời sau phẫu thuật cắt một phần thùy
nông có giảm đi. Nghiên cứu của tác giả
O'Brien(9) tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau
sau cắt thùy nông giới hạn là 27%. Theo tác giả
Roh(13) tỉ lệ liệt mặt sau cắt một phần thùy
nông tuyến mang tai là 11,5%, tác giả
Nicolaos(8), tỉ lệ liệt mặt sau phẫu thuật này là
2,9%. Tác giả Garcia- Purrinos(7), nghiên cứu
trên 57 trường hợp phẫu tích cắt một phần
thùy nông tuyến mang tai có thời gian theo
dõi từ 3 đến 13 năm, tỉ lệ liệt thần kinh mặt
tạm thời chiếm 24,5%.
Với thời gian hồi phục trung bình của liệt
mặt tạm thời là 11 tuần, đa phần các trường hợp
bị liệt nhánh bờ hàm dưới, về mặt giải phẫu học,
đây là nhánh thần kinh nhỏ nhất trong 5 nhánh
thần kinh mặt do đó dễ có nguy cơ tổn thương
nhất khi bóc tách. Thời gian hồi phục liệt mặt
tạm thời sau phẫu thuật cắt một phần tuyến
mang tai nhanh hơn so với thời gian hồi phục
sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần có
bảo tồn thần kinh mặt. Các yếu tố liên quan đến
liệt thần kinh mặt sau phẫu thuật vẫn còn tranh
cải, chưa có sự thống nhất. Các yếu tố này bao
gồm độ rộng của phẫu thuật, liên quan đến
bướu ác tính, kích thước sang thương, tuổi bệnh
nhân, phẫu thuật tuyến mang tai trước đó, lứa
tuổi bệnh nhân, thời gian phẫu thuật, tình trạng
bệnh lý kèm theo như tiểu đường(10). Trong
nghiên cứu của Ikoma(4) nhận thấy tỉ lệ liệt thần
kinh mặt tạm thời là 18,9%, thời gian thần kinh
mặt hồi phục chức năng là 2,7 tháng. Khi phân
tích đa biến tác giả nhận thấy liên quan giữa tỉ lệ
liệt thần kinh mặt tạm thời và vị trí bướu: trên >
dưới (OR= 4,93, p sau (OR= 2,91,
p=0,021) và thùy sâu > thùy nông (OR= 2,76,
p=0,033). Tác giả cũng nhận thấy có đến 75,8%
trường hợp liệt thần kinh mặt liên quan đến
nhánh bờ hàm dưới. Tổn thương nhánh bờ hàm
dưới dễ gây liệt mặt vì nhánh này ít có các
nhánh nối với các nhánh khác, đường kính nhỏ
và đường đi dài. Trong các yếu tố dẫn đến liệt
thần kinh mặt sau phẫu thuật tuyến mang tai
hầu hết các tác giả đều đồng ý rằng cắt một phần
tuyến mang tai so với các phẫu thuật cắt thùy
nông tuyến mang tai hay cắt tuyến mang tai toàn
phần có bảo tồn thần kinh mặt ít gây ra liệt mặt
hơn. Điều này có ý nghĩa thống kê. Độ rộng bóc
tách thần kinh mặt có liên quan đến sang chấn
thần kinh mặt và gây ra liệt mặt. Theo tác giả
Witt(16), liệt thần kinh mặt vĩnh viễn tăng gấp 3
lần, liệt thần kinh mặt tạm thời tăng gấp 2 lần ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 147
bệnh nhân phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn
phần có bảo tồn thần kinh mặt so với phẫu thuật
cắt một phần thùy nông tuyến mang tai. Tác giả
Yuan(20) cũng ghi nhận nguy cơ bệnh nhân có
bệnh lý tiểu đường phẫu thuật tuyến mang tai
cũng có nguy cơ gây liệt mặt cao hơn so với bệnh
nhân không có tiểu đường. Trên bệnh nhân tiểu
đường, tế bào Schwann, sợi myelin của thần
kinh dễ bị tổn thương hơn so với bệnh nhân
không có tiểu đường. Trong nghiên cứu này, khi
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ liệt
mặt sau mổ chúng tôi cũng nhận thấy bướu có
kích thước nhỏ, bóc tách càng ít nhánh thần kinh
ít có nguy cơ liệt thần kinh mặt tạm thời sau mổ.
KẾT LUẬN
Với thời gian theo dõi ít nhất 6 tháng, tỉ lệ liệt
thần kinh mặt vĩnh viễn không xảy ra. Tỉ lệ liệt
thần kinh mặt tạm thời chiếm tỉ lệ 34,8%. Tỉ lệ
liệt thần kinh mặt có liên quan đến kích thước
bướu, bóc tách nhiều nhánh thần kinh mặt trong
lúc phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Batsakis JG (1984). “Deep-lobe parotid gland tumor”. Ann Otol
Rhinol Laryngol. 1984: 93:415-6
2. Eveson JW, Cawson RA(1985). “Salivary gland tumours. A
review of 2410 cases with particular reference to histological
types, site, age and sex distribution, J Pathol;146:51–8.
3. Iizuka K, Ishikawa K (1998). “Surgical techniques for benign
parotid tumors: segmental resection vs extracapsular
lumpectomy”. Acta Otolaryngol Suppl (Stockh); 537:75–81.
4. Ikoma R, et al (2014). “Temporary facial nerve dysfunction after
parotidectomy correlates with tumor location”.Auris Nasus
Larynx,41:479-484
5. Lin DT, Coppit GL, Burkey BB, et al (2004). “Tumors of the
accessory lobe of the parotid gland: a 10-year experience”.
Laryngoscope;114:1652–1655.
6. McGregor AD, Burgoyne M, Tan KC. “Recurrent pleomorphic
salivary adenoma: the relevance of age at first presentation”. Br
J Plast Surg1988;41:177–181.
7. Mra Z, Komisar A, Blaugrund SM (1993). “Functional facial
nerve weakness after surgery for benign parotid tumors: a
multivariate statistical analysis”. Head Neck;15:147–152.
8. Nikolaos P, et al (2004). "Superticial parotidectomy: technical
medications based on tumour characteristics". Journal of
Cranio-Maxillofacial Surgery; 32, 350-353.
9. O’Brien CJ (2003). Current management of benign parotid
tumors—the role of limited superficial parotidectomy. Head
Neck ;25:946–952.
10. Orita Y, Hamaya K, Miki K, et al (2010). “Satellite tumors
surrounding primary pleomorphic adenomas of the parotid
gland”. Eur Arch Otorhinolaryngol, 267:801–806.
11. Rea JL (2000). "Partial parotidectomies: morbidity and benign
tumor recurrence rates in a series of 94 cases" laryngoscope,
110: 924-927.
12. Renehan A, Gleave EN, McGurk M (1996). An analysis of the
treatment of 114 patients with recurrent pleomorphic
adenomas of the parotid gland. Am J Surg;172:710–4.
13. Roh JL, Kim HS, Park CI (2007): “Randomized clinical trial
comparing partial parotidectomy versus superficial or total
parotidectomy”. Br J Surg 94:1081-1087
14. Spiro RH (1986). “Salivary neoplasms: overview of a 35-year
experience with 2,807 patients”, Head Neck Surg;8:177–84.
15. Witt RL (2002). "The significance of the margin in parotid
surgery for pleomorphic adenoma", Laryngoscope, 112: 2141 -
2154.
16. Witt RL (2005). "Facial nerve function after partial superficial
parotidectomy: an 11-year revievv", Otolaryngol Head Neck
Surg, 121: 210-213.
17. Witt RL (2005). "Minimally invasive surgery for parotid
pleomorphic adenoma". ENT Journal. 84(5): 308-311.
18. Woods JE, Chong GC, Beahrs OH(1975). Experience with 1,360
primary parotid tumors. Am J Surg;130:460-2.
19. Yamashita T, Tomoda K, Kumazawa T(1993). “The usefulness
of partial parotidectomy for benign parotid gland tumors”. A
retrospective study of 306 cases. Acta Otolaryngol Suppl
;500:113–6.
20. Yuan X (2009). "Predictors of facial palsy after surgery for
benign parotid disease: multivariate analysis of 626 operations"
Head and Neck, 31:1588-1592.
21. Zbaren P, Stauffer E (2007). “Pleomorphic adenoma of the
parotid gland: histopa-thologic analysis of the capsular
characteristics of 218 tumors”. Head Neck ;29:751–757.
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015