Luận văn Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 - Nâng cao chương “nhóm halogen”

1. LÝ DO CHỌN ĐỀTÀI Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là điều kiện đểphát huy nguồn lực con người và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời đại hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổchức thương mại thếgiới WTO, thì giáo dục lại cần phải phát triển hơn nữa đểgóp phần đàotạo những thếhệcon người Việt Nam mới năng động, sáng tạo, có khảnăng hội nhập toàn cầu, tựlập trong suốt cuộc đời Nhưng, biển học thì vô bờmà bất cứtrường học nào cũng chỉcó thểcung cấp cho con người khối lượng tri thức có giới hạn. Vậy nên học sao đây trong thời đại bùng nổcông nghệthông tin nhưhiện nay, kiến thức nhân loại tăng lên vùn vụt, mỗi ngày một nhiều? Nên chăng cách giải quyết tốt nhất là rèn luyện cho học sinh khả năng tựhọc nhưBác Hồ đã dạy: “Vềcách học, phải lấy tựhọc làm cốt”; có nhưthế thì khi ra trường họvẫn có thểhọc mãi, học suốt đời và chỉcó thếhọmới không bị lạc hậu so với tình hình phát triển của khoa học, kĩthuật. Hiện nay,việc ứng dụng công nghệthông tin trong giảng dạy là một bước tiến mới, thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đềnày và đã cụthểhóa bằng chỉthịsố29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộtrưởng BộGiáo dục và Đào tạo ngày 30/7/2001 vềviệc tăng cường giảng dạy, đàotạo và ứng dụng công nghệthông tin trongngành giáo dục. Một trong bốn mục tiêu được đặt ra là: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệthông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ởcác cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sửdụng công nghệthông tin nhưlà một công cụhỗtrợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ởtất cảcác môn học”. Từnhững lí do trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đềtài: THIẾT KẾSÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬLỚP 10 – NÂNG CAO CHƯƠNG “NHÓM HALOGEN” với mong muốn hỗtrợhoạt động tựhọc hóa học của học sinh và góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thiết kếsách giáo khoa điện tử đểhỗtrợhoạt động tựhọc của học sinh THPT. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂNGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kếsách giáo khoa điện tửchương “Nhóm Halogen” sách giáo khoa lớp 10 nâng cao đểhỗtrợhoạt động tựhọc của học sinh.  Khách thểnghiên cứu: Quá trình dạy học hóa học ởtrường THPT. 4. NHIỆM VỤNGHIÊN CỨU - Nghiên cứu cơsởlý luận và thực tiễn của đềtài. - Thiết kếsách giáo khoa điện tửchương “Nhóm Halogen”. - Thực nghiệm sưphạm để đánh giá kết quảcủa đềtài. 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nội dung sách giáo khoa điện tử được giới hạn trong chương “Nhóm Halogen” hóa học lớp 10 nâng cao THPT. 6. GIẢTHUYẾT KHOA HỌC Nếu khai thác tốt các nguồn tài nguyên dạy học từsách giáo khoa, sách tham khảo, các phim thí nghiệm và từmạng internet kết hợp với việc sửdụng máy vi tính và các phần mềm thì sẽthiết kế được sách giáo khoa điện tửcó nội dung hấp dẫn, giao diện đẹp kích thích hứng thú tựhọc của học sinh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Đọc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đềtài. - Truy cập thông tin trên internet. - Sửdụng các phần mềm tin học. - Phân tích và tổng hợp. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra bằng các phiếu câu hỏi. - Phỏng vấn. - Thực nghiệm sưphạm. 7.3. Sửdụng toán thống kê đểxửlý sốliệu. 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀTÀI NGHIÊN CỨU - Sửdụng công nghệthông tin đểthiết kếcác bài học chương “Nhóm Halogen” dưới dạng e-book. - Giúp học sinh có sách giáo khoa điện tử đểtựhọc, tựnghiên cứu ởnhà

pdf181 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 - Nâng cao chương “nhóm halogen”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM Nguyễn Thị Thu Hà THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ LỚP 10 - NÂNG CAO CHƯƠNG “NHÓM HALOGEN” Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học hóa học Mã số: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH VĂN BIỀU Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 LỜI CẢM ƠN Bằng tất cả lòng kính trọng và biết ơn, tác giả xin gởi lời cám ơn chân thành nhất đến Ban Giám Hiệu trường ĐHSP TP. HCM, Phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học, quý thầy cô đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các học viên hoàn thành khóa học. Tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến: - Thầy Trịnh Văn Biều, Trưởng Khoa Hóa, ĐHSP TP. HCM. Cám ơn thầy đã dành rất nhiều thời gian, công sức và cả những lời chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình làm luận văn. - Các thầy cô giáo ở các trường Ngô Quyền, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Đĩnh Chi… đã giúp đỡ rất nhiều trong quá trình thực nghiệm sư phạm đề tài. - Các thầy cô ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Đồng và TP. HCM đã nhiệt tình đóng góp ý kiến cho e-book. Cuối cùng, xin cám ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành tốt luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh 2008 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNTT : công nghệ thông tin CSS : cascading Style Sheets – Bảng kiểu xếp chồng GV : giáo viên HS : học sinh HTML : hypertext Markup Language – Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản ICT : information and communication technology – Công nghệ thông tin và truyền thông PPDH : phương pháp dạy học SGK : sách giáo khoa THPT : trung học phổ thông MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời đại hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, thì giáo dục lại cần phải phát triển hơn nữa để góp phần đào tạo những thế hệ con người Việt Nam mới năng động, sáng tạo, có khả năng hội nhập toàn cầu, tự lập trong suốt cuộc đời… Nhưng, biển học thì vô bờ mà bất cứ trường học nào cũng chỉ có thể cung cấp cho con người khối lượng tri thức có giới hạn. Vậy nên học sao đây trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, kiến thức nhân loại tăng lên vùn vụt, mỗi ngày một nhiều? Nên chăng cách giải quyết tốt nhất là rèn luyện cho học sinh khả năng tự học như Bác Hồ đã dạy: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt”; có như thế thì khi ra trường họ vẫn có thể học mãi, học suốt đời và chỉ có thế họ mới không bị lạc hậu so với tình hình phát triển của khoa học, kĩ thuật. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là một bước tiến mới, thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và đã cụ thể hóa bằng chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 30/7/2001 về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục. Một trong bốn mục tiêu được đặt ra là: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học”. Từ những lí do trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ LỚP 10 – NÂNG CAO CHƯƠNG “NHÓM HALOGEN” với mong muốn hỗ trợ hoạt động tự học hóa học của học sinh và góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thiết kế sách giáo khoa điện tử để hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh THPT. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Nhóm Halogen” sách giáo khoa lớp 10 nâng cao để hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh.  Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. - Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Nhóm Halogen”. - Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả của đề tài. 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nội dung sách giáo khoa điện tử được giới hạn trong chương “Nhóm Halogen” hóa học lớp 10 nâng cao THPT. 6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu khai thác tốt các nguồn tài nguyên dạy học từ sách giáo khoa, sách tham khảo, các phim thí nghiệm và từ mạng internet kết hợp với việc sử dụng máy vi tính và các phần mềm thì sẽ thiết kế được sách giáo khoa điện tử có nội dung hấp dẫn, giao diện đẹp kích thích hứng thú tự học của học sinh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Đọc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài. - Truy cập thông tin trên internet. - Sử dụng các phần mềm tin học. - Phân tích và tổng hợp. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra bằng các phiếu câu hỏi. - Phỏng vấn. - Thực nghiệm sư phạm. 7.3. Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu. 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU - Sử dụng công nghệ thông tin để thiết kế các bài học chương “Nhóm Halogen” dưới dạng e-book. - Giúp học sinh có sách giáo khoa điện tử để tự học, tự nghiên cứu ở nhà. Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Hiện nay, với sự phát triển của Internet chỉ cần search trên mạng là đã có rất nhiều các website về hoá học nhưng chủ yếu đều là tiếng Anh, do đó gây trở ngại lớn trong việc tìm kiếm tri thức của học sinh phổ thông. Bên cạnh đó, số lượng đề tài về thiết kế website tự học trong các khóa luận và luận văn tốt nghiệp đến nay vẫn chưa nhiều. Sau đây là một số khoá luận và luận văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và ĐHSP Hà Nội: 1. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 2. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không no mạch hở dành cho học sinh THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 3. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần nâng cao chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 4. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập chương nguyên tử cho học sinh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và Dreamweaver, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 5. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ cho học sinh trong việc tự học môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 6. Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX 2004 và Macromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi – lưu huỳnh chương trình cải cách, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và Dreamweaver MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá học của học sinh phổ thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 8. Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học chương Halogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 9. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu huỳnh lớp 10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ thông, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 10. Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (E-book) các chương về lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội. Các website này đều có điểm chung là giúp HS có một công cụ tự học hiệu quả. Mặc dù vậy, các tác giả chưa quan tâm nhiều đến một số vấn đề sau: - Nội dung kiến thức trình bày chưa thật sự hấp dẫn, chủ yếu được xây dựng trên phần mềm Dreamweaver mà không phối hợp một số phần mềm khác. - Chưa có phần mở đầu mỗi bài học. - Ở phần bài tập, chưa cung cấp đủ các câu hỏi lí thuyết và đáp án cho từng bài học. Trong phần trắc nghiệm, các tác giả chủ yếu đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra chung cho cả chương mà chưa có những câu hỏi trắc nghiệm cho mỗi bài học. - Phim thí nghiệm không thể xem trực tiếp trên nội dung bài học mà thường phải download về máy tính rồi mới xem được. - Chưa cung cấp cho HS các phương pháp giải nhanh các bài toán hoá học…. 1.2. Đổi mới phương pháp dạy và học 1.2.1. Các xu hướng đổi mới phương pháp dạy và học Theo TS. Trịnh Văn Biều [7], một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học trên thế giới và ở nước ta hiện nay là: 1. Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển trọng tâm hoạt động từ GV sang HS. Chuyển lối học từ thông báo tái hiện sang sáng tạo, tìm tòi, khám phá. 2. Cá thể hóa việc dạy học. 3. Sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin vào dạy học. 4. Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống. Chuyển từ lối học nặng về tiêu hóa kiến thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức. 5. Cải tiến việc kiểm tra và đánh giá kiến thức. 6. Phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động tự học và phương châm học suốt đời. 7. Gắn dạy học với nghiên cứu khoa học với mức độ ngày càng cao (theo sự phát triển của HS, theo cấp học, bậc học). Trong 7 xu hướng đổi mới trên thì việc phát huy tính tích cực và khả năng tự học của HS đang là những xu hướng đổi mới quan trọng về phương pháp dạy và học hiện nay (xu hướng 1 và 6). 1.2.2. Đổi mới PPDH với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin Trong báo cáo về “Công nghệ thông tin trong giáo dục” của Quách Tuấn Ngọc (2/11/2005)[24], tác giả đã đưa ra một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy và học với sự hỗ trợ của CNTT: a. Xu hướng đổi mới nhờ CNTT Bảng 1.1. Xu hướng đổi mới nhờ CNTT Từ Đến Xây dựng trường lớp với bảng, bàn… Một hạ tầng tri thức (trường học, phòng thí nghiệm, radio, TV, Internet) Các lớp học Từng người học một (tính cá thể) Giáo viên như là người cung cấp tri thức Giáo viên như là người hướng dẫn và tạo điều kiện tìm tri thức Bộ sách giáo khoa và một vài đồ dùng phụ trợ nghe nhìn tương tự (radio- cassette…) Dụng cụ đa phương tiện Multimedia (in ấn, âm thanh, thiết bị số...) và nguồn thông tin trên mạng máy tính b. Đổi mới phương pháp dạy và học  Về phương pháp trình bày: - Từ phấn bảng sang trình chiếu điện tử. - Từ độc thoại, thầy đọc trò chép sang đối thoại, diễn giả, trình bày.  Về phương tiện trình chiếu: Từ máy chiếu overhead (ảnh tĩnh) đơn giản sang máy chiếu multimedia.  Về bài thí nghiệm: Từ thí nghiệm trên hiện vật trực quan sang thí nghiệm ảo, sinh động, không độc hại, đỡ tốn kém, cá thể hoá…  Về phương tiện truyền tải thông tin: - Từ kênh chữ sang multimedia (đa phương tiện) với hình ảnh, video, tiếng nói, âm thanh… sinh động. - Từ SGK thuần chữ (text) sang e - book đa phương tiện (multimedia).  Vai trò thầy: - Từ độc thoại, người dạy dỗ … sang vai trò hướng dẫn, kích hoạt các hoạt động, để HS tự động não thu nhận, thảo luận … - Thầy soạn bài, soạn giáo án ngay trên máy vi tính bằng word, powerpoint...  Vai trò học sinh: Tăng cường tính tự học, giao lưu quốc tế, nhiều khi trò giỏi hơn thầy… 1.3. Tự học 1.3.1. Tự học là gì? Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [16], tự học là: “…quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành…”. Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định”. Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện… Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn, các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động ngoại khóa khác. Tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao. 1.3.2. Các hình thức của tự học Theo TS. Trịnh Văn Biều [8], có 3 hình thức tự học: - Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu, vận dụng các kiến thức trong đó. Cách học này sẽ đem lại rất nhiều khó khăn cho người học, mất nhiều thời gian và đòi hỏi khả năng tự học rất cao. - Tự học có hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin khác. - Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết trong ngày, trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học. 1.3.3. Chu trình học Theo Nguyễn Kỳ “Chu trình học là chu trình chủ thể tìm hiểu, xử lý, giải quyết vấn đề hay vật cản của một tình huống học với sự hợp tác của tác nhân và sự hỗ trợ của môi trường sư phạm” [40, tr 113]. Cũng theo tác giả, chu trình học diễn biến theo ba thời: Tự nghiên cứu (I), Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy (II), Tự kiểm tra, tự điều chỉnh (III). Hình 1.1. Chu trình học ba thời Thời (I): Tự nghiên cứu Trước một tình huống học, chủ thể bắt đầu thấy có nhu cầu hay hứng thú tìm hiểu, nhận biết vấn đề của tình huống học: Đây là vấn đề gì? Có ý nghĩa ra sao? Có thể giải quyết theo hướng nào? Từ chỗ nhận biết vấn đề, chủ thể tiến hành thu nhận thông tin có liên quan đến vấn đề đó, xử lý thông tin, xây dựng các giải pháp, thử nghiệm giải pháp, kết quả, đưa ra kết luận và giải quyết vấn đề. Chủ thể ghi lại kết quả “tự nghiên cứu” của thời (I) thành sản phẩm học cá nhân ban đầu. Tất nhiên sản phẩm đó có thể mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu khoa học. Bằng con đường nào để làm cho sản phẩm ban đầu trở thành khách quan, khoa học thật sự? Đó là con đường người học tự thể hiện mình để hợp tác với các bạn và thầy trong cộng đồng lớp học. Tự thể hiện, hợp tác với bạn , đó là thời (II) của chu trình học. Thời (II): Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy Qua thời (I), chủ thể đã tự thể hiện mình bằng cách tự đặt mình vào tình huống, bằng sắm vai, bằng văn bản của sản phẩm học ban đầu. Giờ đây, cần tiếp tục tự thể hiện để hợp tác với các bạn và thầy bằng cách tự trình bày và bảo vệ sản phẩm học của mình, hỏi bạn và thầy về những gì đã tự hỏi mà không tự trả lời được, tỏ rõ thái độ của mình trước chủ kiến của bạn; tham gia tranh luận. Tranh luận có trọng tài, có kết luận của thầy. Tranh luận và kết luận của thầy sẽ cho phép chủ thể bổ sung sản phẩm ban đầu của mình thành một sản phẩm khách quan hơn, có tính hợp tác, xã hội, nhất là thông qua việc “tự kiểm tra, tự điều chỉnh” ở thời (III) dưới đây. Thời (III): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh Thảo luận ở cộng đồng lớp và kết luận của thầy đã cung cấp thông tin phản hồi về sản phẩm học ban đầu của chủ thể, lấy đó làm cơ sở cho người học so sánh, đối chiếu, tự kiểm tra lại sản phẩm học, tự đánh giá, tự phê bình và cuối cùng tổng hợp, chốt lại vấn đề rồi tự sửa sai, điều chỉnh, hoàn chỉnh thành sản phẩm khoa học, và tự rút kinh nghiệm về cách học, cách tư duy, cách giải quyết vấn đề của mình, sẵn sàng bước vào một tình huống học mới. Chu trình học ba thời “Tự nghiên cứu – Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy – Tự kiểm tra, tự điều chỉnh” – thực chất cũng chính là con đường “Nhận biết, phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết và giải quyết vấn đề” của việc nghiên cứu khoa học – con đường xoắn ơristic kiểu học trò ở tầm vóc và trình độ của người học, dẫn dắt người học đến tri thức khoa học, đến chân lý mới (chỉ mới đối với người học) và chỉ có thể diễn ra dưới sự hướng dẫn của thầy. Ngay tự thời (I), thầy đã hướng dẫn người học cách tự nghiên cứu như giới thiệu vấn đề (ý nghĩa, mục tiêu, định hướng), hướng dẫn cách thu nhận, xử lý thông tin, cách giải quyết vấn đề và tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để trò có thể tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức. Ở thời (II), thầy là người tổ chức cách học hợp tác hai chiều đối thoại trò – trò, trò – thầy, như giúp đỡ cá nhân trình bày, bảo vệ sản phẩm học, tổ chức thảo luận ở cộng đồng lớp học, lái cuộc tranh luận theo đúng mục tiêu. Cuối cùng thầy là người trọng tài kết luận về những gì người học đã tự tìm ra và tranh luận thành tri thức khoa học. Ở thời (III), thầy là người cố vấn cho trò tự kiểm tra, tự điều chỉnh như cung cấp thông tin liên hệ ngược về sản phẩm học (kết luận, đánh giá, cho điểm…), giúp đỡ trò tự đánh giá, tự sửa sai, tự rút kinh nghiệm về cách học. Chu trình học ba thời không có nghĩa tuyệt đối là có “ba bước”, “ba giai đoạn”, có ranh giới rạch ròi, máy móc, tách rời nhau, mà có thể đan xen, hoà nhập lẫn nhau và có thể biến động theo hoàn cảnh người học. Ngay trong lúc đang tham gia thảo luận (thời II), chủ thể có thể động não, suy nghĩ (tự nghiên cứu – thời I), hoặc tự kiểm tra, tự phê bình về sản phẩm học của mình (thời III). Thời chỉ có nghĩa là vào lúc đó, nổi bật lên vai trò của cá nhân người học, của lớp hay của thầy. Thời nào cũng có vai trò và hoạt động của trò và thầy, song ở thời (I), nổi lên vai trò lao động cá nhân (học cá nhân) của người học với kết quả là sản phẩm học ban đầu. Thời (II) là vai trò của lao động hợp tác (học hợp tác) với thầy và bạn ở lớp học, tạo ra sản phẩm học mang tính hợp tác – xã hội. Ở thời (III), nổi lên vai trò lao động cá nhân (học cá nhân) ở trình độ cao hơn thời I: tự kiểm tra, tự phê bình, tự sửa sai, tự điều chỉnh, rút kinh nghiệm… Điều cốt yếu là cả ba thời đều diễn ra trên cái nền chung là hành động học, tự học, tự nghiên cứu, tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của chủ thể, dưới sự hướng dẫn hợp lý của nhà giáo. Ba thời cũng có thể xem như là ba cách học tổng quát: cách tự nghiên cứu, cách học hợp tác, cách tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Chu trình học ba thời bắt đầu từ “Tự nghiên cứu” dưới sự hướng dẫn của thầy, qua các thời “Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy” và “Tự kiểm tra, tự điều chỉnh” rồi trở lại “Tự nghiên cứu” ở một tình huống học mới, ở trình độ cao hơn trình độ ban đầu “một ít”, theo con đường xoắn ốc nhiều tầng từ tự học đến học hợp tác rồi trở lại tự học để dần dần kiến tạo cho bản thân chủ thể trình độ và năng lực tự học, tự nghiên cứu, năng lực tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. Tổng thể các chu trình học là “cuộc hành trình nội tại” phát triển bền vững ở mỗi người học năng lực tự học và thói quen tự học suốt đời “để hiểu”, “để làm”, “để hợp tác cùng chung sống” và “để làm người” lao động tự chủ, năng động và sáng tạo của thế kỷ XXI. 1.3.4. Vai trò của tự học Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Nó giúp khắc phục nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn. Tự học là giúp tạo ra t