Mục tiêu: Khảo sát nồng độ marker tạo xương OC và hủy xương BC huyết thanh ở PNMK và tìm hiểu
mối liên quan giữa hai marker này với mật độ xương, tuổi, thời gian mãn kinh và nồng độ estradiol huyết thanh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Tiến hành trên 161 PN chia thành hai
nhóm 123 PNMK và 38 PN trẻ tuổi 20‐35 tuổi đến khám tại khoa Nội Thận – Khớp – Bệnh viện 108 từ 01/
2011 đến 08/ 2012.
Kết quả: PNMK có tuổi trung bình là 63,2 ± 9,2 tuổi và phụ nữ trẻ là 29,0 ± 3,6 tuổi, tuổi mãn kinh 49,4 ±
2,4 tuổi và thời gian mãn kinh 13,7 ± 8,9 năm. Nồng độ marker tạo xương OC, hủy xương BC huyết thanh
trung bình ở PNMK đều cao hơn nhóm trẻ tuổi. Tỉ lệ PNMK có OC huyết thanh tăng là 29,3% và BC huyết
thanh tăng 59,4%. Mật độ xương tại cổ xương đùi ở PNMK xu hướng thấp hơn ở nhóm có nồng độ OC, BC
mức cao nhưng sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Marker tạo xương OC huyết thanh tăng
cao có ý nghĩa ở độ tuổi 55‐64 và ở thời điểm 10 năm đầu của mãn kinh so với PN trẻ tuổi, p < 0,05. Trong khi
đó marker hủy xương BC ở nhóm MK tăng cao có ý nghĩa ở mọi độ tuổi và ở mọi thời điểm mãn kinh so với PN
trẻ tuổi. Có mối tương quan nghịch mức trung bình giữa nồng độ BC huyết thanh với estradiol huyết thanh với
hệ số tương quan r = ‐ 0,35, p < 0,05.
Kết luận: Nồng độ trung bình các marker hủy xương BC và marker tạo xương OC ở nhóm PNMK cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm PN trẻ tuổi. Có mối liên quan giữa nồng độ marker hủy xương BC với nồng độ
estradiol huyết thanh ở PNMK. Không thấy có mối liên quan giữa nồng độ các marker này với mật độ xương ở
PNMK.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nồng độ Osteocalcin và beta‐crosslap huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
368
NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ OSTEOCALCIN VÀ BETA‐CROSSLAP
HUYẾT THANH Ở PHỤ NỮ MÃN KINH
Lê Thu Hà*, Vũ Thị Thanh Hoa*, Nguyễn Thị Hương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ marker tạo xương OC và hủy xương BC huyết thanh ở PNMK và tìm hiểu
mối liên quan giữa hai marker này với mật độ xương, tuổi, thời gian mãn kinh và nồng độ estradiol huyết thanh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Tiến hành trên 161 PN chia thành hai
nhóm 123 PNMK và 38 PN trẻ tuổi 20‐35 tuổi đến khám tại khoa Nội Thận – Khớp – Bệnh viện 108 từ 01/
2011 đến 08/ 2012.
Kết quả: PNMK có tuổi trung bình là 63,2 ± 9,2 tuổi và phụ nữ trẻ là 29,0 ± 3,6 tuổi, tuổi mãn kinh 49,4 ±
2,4 tuổi và thời gian mãn kinh 13,7 ± 8,9 năm. Nồng độ marker tạo xương OC, hủy xương BC huyết thanh
trung bình ở PNMK đều cao hơn nhóm trẻ tuổi. Tỉ lệ PNMK có OC huyết thanh tăng là 29,3% và BC huyết
thanh tăng 59,4%. Mật độ xương tại cổ xương đùi ở PNMK xu hướng thấp hơn ở nhóm có nồng độ OC, BC
mức cao nhưng sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Marker tạo xương OC huyết thanh tăng
cao có ý nghĩa ở độ tuổi 55‐64 và ở thời điểm 10 năm đầu của mãn kinh so với PN trẻ tuổi, p < 0,05. Trong khi
đó marker hủy xương BC ở nhóm MK tăng cao có ý nghĩa ở mọi độ tuổi và ở mọi thời điểm mãn kinh so với PN
trẻ tuổi. Có mối tương quan nghịch mức trung bình giữa nồng độ BC huyết thanh với estradiol huyết thanh với
hệ số tương quan r = ‐ 0,35, p < 0,05.
Kết luận: Nồng độ trung bình các marker hủy xương BC và marker tạo xương OC ở nhóm PNMK cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm PN trẻ tuổi. Có mối liên quan giữa nồng độ marker hủy xương BC với nồng độ
estradiol huyết thanh ở PNMK. Không thấy có mối liên quan giữa nồng độ các marker này với mật độ xương ở
PNMK.
Từ khóa: osteocalcin, beta‐crosslap, phụ nữ mãn kinh.
ABSTRACT
OSTEOCALCIN AND BETA‐CROSSLAP SERUM IN POSTMENOPAUSAL WOMEN
Le Thu Ha, Vu Thi Thanh Hoa, Nguyen Thi Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 368 ‐ 373
Objectives: To investigate boneturnover marker osteocalcin, beta‐crosslap serum and correlate between the
markers with bone mineral density, age, postmenopausal duration and estradiol serum.
Methods: Cross‐sectional study. 161 women were divided two group, postmenopausal group include 123
people and the control has 38 young women with 20‐35 years old. They were examined at department of
nephrology and rheumatology, military central hospital 108 from January, 2011 to August, 2012.
Results: Mean age of postmenopausal group was 63.2 ± 9.2 years old and in young group was 29.0 ± 3.6
years old, mean postmenopausal age was 49.4 ± 2.4 years old and postmenopausal duration was 13.7 ± 8.9 years.
Mean of OC, BC serum in postmenopausal group was higher than in the young. In postmenopausal women, rate
of high OC, BC level was respectively 29.3 % and 59.4%. Bone mineral density hip in postmenopausal with high
OC, BC level was lower than in the other group, nonsignificantly p > 0.05. In 55‐64 year‐old women and first 10
* Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Tác giả liên lạc: BS.Vũ Thị Thanh Hoa, ĐT: 091 3008220, Email: bsvthanhhoa@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 369
year postmenopausal duration, bone formation marker OC serum in the old women increased significantly higher
than in the control, p< 0.05. Beside, BC serum increased significantly in all period of postmenopausal women, p <
0.001. There was medium correlation between BC serum and estradiol serum in postmenopausal women (r = ‐
0.35, p < 0.05).
Conclusions: Mean of BC and OC serum in postmenopausal women were higher than in the control,
significantly. There were relationship between BC serum and estradiol serum in postmenopausal women. None of
relationship was the markers with bone mineral density in the old women.
Keyword: osteocalcin, beta‐crosslap, postmenopausal women.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mật độ xương (MĐX) cho biết khối lượng
khoáng của xương, trong khi chuyển hóa sinh
học của xương được đánh giá dựa vào các
marker chu chuyển xương. Các marker được sử
dụng trên lâm sàng gồm các marker tạo xương
và marker hủy xương. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định các marker chu chuyển xương có ý
nghĩa trong tiên lượng mất xương, gãy xương và
theo dõi hiệu quả điều trị loãng xương (LX). Các
marker này thường biến đổi sớm ngay sau 6‐8
tuần điều trị loãng xương trong khi những thay
đổi của mật độ xương có ý nghĩa ít nhất phải sau
6 tháng điều trị(9). Theo khuyến cáo của Hội
chống loãng xương thế giới (IOF) và Hiệp hội
sinh hóa lâm sàng và xét nghiệm (IFCC) – 2011,
2 marker chu chuyển xương có thể ứng dụng
trong lâm sàng dự báo nguty cơ loãng xương và
theo dõi hiệu quả điều trị loãng xương là marker
tạo xương osteocalcin (OC) và marker hủy
xương beta‐crosslap (BC)(9).
Theo một nghiên cứu dịch tễ tại Việt Nam
(2000), 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng
loãng xương và ước tính hàng năm số ca gãy
xương ở nữ là 100.000 ca và nam là 60.000 ca, dự
kiến con số này tăng gấp 2 lần trong vòng 20
năm tới(7). Cho tới nay tại Việt Nam những
nghiên cứu về marker chu chuyển xương ở
PNMK còn khiêm tốn. Nhằm làm rõ thêm
những thay đổi về một số marker chu chuyển
xương ở PNMK chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu nồng độ ostecalcin, beta‐crosslap
huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh” với mục tiêu:
1. Khảo sát nồng độ ostecalcin và beta‐
crosslap huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh.
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ
ostecalcin, beta‐crosslap huyết thanh với mật độ
xương và một số yếu tố nguy cơ loãng xương
như tuổi, BMI, thời gian mãn kinh, nồng độ
estradiol huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 161 phụ nữ chia thành hai nhóm
‐ Nhóm nghiên cứu là 123 PNMK đến khám
tại khoa Nội Thận – Khớp ‐ Bệnh viện TƯQĐ
108, được thăm khám theo mẫu bệnh án thống
nhất; Xét nghiệm công thức máu; các chỉ số sinh
hóa thường qui; đo mật độ xương bằng DEXA;
định lượng estradiol, osteocalcin (OC) và beta‐
crosslap (BC) huyết thanh.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Các PN mãn kinh tự nhiên, mất kinh hoàn
toàn ít nhất 12 tháng.
Tiêu chuẩn loại trừ
PNMK mãn kinh bắt buộc, mắc bệnh hoặc dùng
các thuốc ảnh hưởng tới MĐX, suy giảm chức năng
thận, không hợp tác nghiên cứu đầy đủ.
‐ Nhóm chứng là 38 phụ nữ trẻ tuổi từ 20 –
35 tuổi, khỏe mạnh.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu cắt ngang.
Các tiêu chuẩn và qui trình xét nghiệm sử
dụng trong nghiên cứu
‐ Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương: Theo
WHO – 1994(5). T‐score ≤ ‐ 2,5 là bị loãng xương.
Đo mật độ xương theo phương pháp DEXA tại
cổ xương đùi trên máy Hologic – Mỹ, tại khoa Y
học hạt nhân – Bệnh viện 108.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
370
‐ Phân loại BMI: tiêu chuẩn Hiệp Hội Đái
tháo đường Đông Nam Á.
‐ Xét nghiệm estradiol, OC, BC huyết thanh
trên máy Elecsys ‐ 2010 ‐ Roche theo nguyên lý
“bánh kẹp” tại khoa Sinh hóa ‐ Bệnh viện 108.
Lấy máu vào buổi sáng sau nhịn ăn 8‐10h. Định
lượng estradiol sau sạch kinh 7 ngày ở PN trẻ
tuổi.
+ Phân mức nồng độ estradiol, OC, BC huyết
thanh: Định lượng nồng độ ở PN trẻ tuổi. Căn
cứ vào giá trị trung bình ( X ) và một độ lệch
chuẩn (SD) của nhóm chứng để xác định các
phân mức bình thường của mỗi marker.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Khoa Nội Thận ‐ Khớp ‐ Bệnh viện TƯQĐ
108. Thời gian nghiên cứu từ 01/ 2011 đến 08/
2012.
Xử lý số liệu
Bằng phương pháp thống kê y học trên phần
mềm Epi info 6.0. Tính tỉ lệ %, trung bình, độ
lệch chuẩn, hệ số tương quan (r) giữa tuổi, thời
gian MK, estradiol với OC, BC.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của các nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Nhóm mãn kinh (n=123)
Nhóm trẻ
tuổi (n=38)
Tuổi (năm) 63,2 ± 9,2 29,0 ± 3,6
BMI (kg/ m2) 22,7 ± 2,9 20,8 ± 1,1
Tuổi mãn kinh (năm) 49,4 ± 2,4
Thời gian mãn kinh (năm) 13,7 ± 8,9
MĐX tại CXĐ ( X ± SD)
(g/cm2)
0,64 ± 0,13 0,87 ± 0,11
p< 0,05
Nồng độ Estradiol ( X ± SD)
(pg/ml)
25,6 ± 33,0 71,4 ± 54,1
p< 0,001
n %
Thời gian
mãn kinh
< 10 năm 47 38,2
11-15 năm 28 22,8
> 15 năm 48 39,0
Bệnh kèm
theo
Thoái hóa khớp 60 48,8
Khác (ĐTĐ, THA) 18 14,6
Loãng xương
(T-score ≤ -2,5) 22 17,9
Đặc điểm osteocalcin và beta‐crosslap huyết thanh của nhóm nghiên cứu
Bảng 2. Osteocalcin, beta‐crosslap huyết thanh ở 2 nhóm nghiên cứu
Nồng độ (ng/ml) Nhóm mãn kinh (n=123) Nhóm trẻ tuổi (n=38) p
Osteocalcin ( X ± SD) 16,9 ± 9,2 13,8 ± 5,9 0,05
Beta-crosslap ( X ± SD) 0,56 ± 0,30 0,28 ± 0,20 <0,001
n %
Phân mức
OC
Bình thường (≤19,7ng/ml) 87 70,7
Cao(> 19,7ng/ml) 36 29,3
Phân mức
BC
Bình thường(≤ 0,48ng/ml) 50 40,6
Cao(> 0,48 ng/ml) 73 59,4
Mối liên quan giữa osteocalcin và beta‐crosslap huyết thanh với mật độ xương và một số
yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh
Bảng 3. Liên quan giữa OC, BC huyết thanh và mật độ xương.
Mật độ xương Phân mức CXĐ ( X ± SD) (g/cm2) p
Osteocalcin (OC)
Bình thường (≤ 19,7 ng/ml) (n =87) 0,75 ± 0,14
> 0,05
Cao (> 19,7 ng/ml) (n = 36) 0,72 ± 0,17
Beta-crosslap (BC)
Bình thường (≤ 0,48 ng/ml) (n =50) 0,75 ± 0,14
> 0,05
Cao (> 0,48 ng/ml) (n = 73) 0,71 ± 0,17
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 371
Bảng 4. Liên quan giữa OC, BC huyết thanh và tuổi ở phụ nữ mãn kinh
Nồng độ
(ng/ml)
Phân nhóm tuổi ở PNMK
Nhóm trẻ
tuổi(5) p < 55
(1)
(n = 23)
55 – 64(2)
(n = 52)
65 – 74(3)
(n = 29) ≥ 75
(4) (n=19)
Osteocalcin
( X ± SD)
16,9±10,0 17,0±10,5 16,5 ± 7,9 15,9 ± 6,7 13,8±5,9 p2-5 0,05
pchung> 0,05
Beta-crosslap
( X ± SD)
0,51 ± 0,30 0,63 ± 0,31 0,49 ± 0,29 0,49 ± 0,22 0,28 ± 0,20 p1-5<0,001 p2-5<0,001 p3-5<0,01 p4-5<0,05
pchung> 0,05
Bảng 5. Nồng độ OC, BC huyết thanh và thời gian mãn kinh
Nồng độ
(ng/ml)
Thời gian mãn kinh ở PNMK
Nhóm trẻ tuổi (5) p < 5 năm(1)
(n = 23)
5-10 năm(2)
(n = 24)
11-15năm(3)
(n = 28)
>15 năm(4)
(n = 48)
Osteocalcin
( X ± SD)
17,2±9,8 19,1±11,3 16,2±10,5 15,8±6,8 13,8±5,9 p1-5, p2-5 0,05
pchung> 0,05
Beta-crosslap
( X ± SD)
0,60 ± 0,31 0,65± 0,35 0,55 ± 0,26 0,50 ± 0,28 0,28 ± 0,20 p1-5, p2-5, p3-5, p4-5 <0,001
pchung> 0,05
Bảng 6. Nồng độ osteocalcin và estradiol huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh
Phân mức Estradiol
Phân mức osteocalcin
p
Cao (> 19,7ng/ml) Bình thường (≤19,7ng/ml)
Thấp (≤ 17,3 pg/ml) (n =66) 20 (55,6%) 46 (52,9%)
>0,05
Bình thường (> 17,3pg/ml) (n =57) 16 (44,4%) 41 (47,1%)
Chung (n=123) 36 87
Bảng 7. Nồng độ BC huyết thanh và estradiol huyết thanh ở PNMK
Phân mức Estradiol
Phân mức beta-crosslap
p
Cao (> 0,48 ng/ml) Bình thường (≤ 0,48ng/ml)
Thấp (≤ 17,3pg/ml) (n =66) 53 (72,6%) 13 (26,0%)
<0,05
Bình thường (> 17,3pg/ml) (n =57) 20 (27,4%) 37 (74,0%)
Chung (n=123) 73 50
BÀN LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành trên 123 PNMK
và 38 phụ nữ trẻ tuổi, khỏe mạnh. Tuổi trung
bình của PNMK là 63,2 ± 9,2 tuổi và PN trẻ tuổi
khỏe mạnh là 29,0 ± 3,6 tuổi. Tuổi mãn kinh 49,4
± 2,4 tuổi, thời gian mãn kinh 13,7 ± 8,9 năm. Đa
số các PNMK > 10 năm là 22,8% MK 11‐15 năm
và 39% MK > 15 năm. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, PNMK bị loãng xương tại cổ xương
đùi chiếm tỉ lệ 17,9%. Kết quả này cũng tương
đồng với nghiên cứu dịch tễ học khác tại Việt
Nam(7). Mật độ xương tại cổ xương đùi luôn
phản ánh trung thực tình trạng loãng xương hơn
so với các vị trí khác do vùng đo mật độ xương
tại đây rõ ràng, kết quả đo ít bị ảnh hưởng bởi
các bệnh lí khác như thoái hóa khớp.
Nồng độ osteocalcin và beta‐crosslap huyết
thanh ở phụ nữ mãn kinh
Với người trưởng thành luôn có 5% diện tích
vỏ xương và 20% diện tích bè xương trong quá
trình thực hiện hoạt động chu chuyển xương để
duy trì và làm mới cấu trúc của xương(5). Bình
thường chu chuyển xương là một quá trình cân
bằng giữa tạo xương và hủy xương. Các marker
tạo xương là sản phẩm của các tế bào tạo xương,
phản ánh chức năng của tế bào đó và quá trình
tạo xương, bao gồm Osteocalcin, Phosphatase
kiềm đặc hiệu của xương (BSAP), Procollagen
týp 1 propeptid (P1NP). Các marker hủy xương
là sản phẩm thoái biến của các collagen tạo ra
trong quá trình hủy xương bao gồm NTX và
Beta‐Crosslap, Hydroxyprolin (HYP),
Pyridinolin và Deoxypyridinolin, Phosphatase
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
372
acid đối kháng tartrate, Bone Sialoprotein (BSP),
Cathepsin K. Osteocalcin (OC) là một marker
của quá trình tạo xương, một protein không
collagen của mạng lưới xương, được tổng hợp
từ tế bào tạo xương, nguyên bào răng và tế bào
sụn. Nó có nhiệm vụ gắn canxi vào protein của
mạng lưới xương trong quá trình khoáng hóa.
Sau khi được tổng hợp, 80% OC sẽ nhập vào
mạng lưới xương và 20% còn lại đi vào hệ tuần
hoàn và có thể định lượng được. Nồng độ OC
huyết thanh không thay đổi theo chu kỳ kinh
nguyệt và không bị ảnh hưởng bởi lượng canxi
đưa vào cơ thể, nó có thể tăng cao ở PNMK.
Beta‐crosslap (BC) là marker của quá trình hủy
xương. BC được thải trừ qua thận. Nhiều nghiên
cứu quan sát thấy BC huyết thanh và BC niệu có
xu hướng gia tăng theo tuổi. Xét nghiệm BC
huyết thanh và niệu có độ nhạy cao (83,8%) và
độ đặc hiệu cũng cao (95%) khi theo dõi hiệu
quả điều trị loãng xương. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định nồng độ BC tăng liên quan tới nguy
cơ mất xương, gãy xương và có giá trị trong theo
dõi hiệu quả điều trị thuốc chống LX ở PNMK.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy:
nồng độ OC, BC huyết thanh ở PNMK lần lượt
là 16,9 ± 9,2 ng/ml và 0,56 ± 0,30 ng/ml đều cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm trẻ tuổi là
13,8 ± 5,9 ng/ml (p = 0,05) và 0,28 ± 0,2 ng/ml (p
<0,001). Tỉ lệ PNMK có nồng độ OC, BC huyết
thanh tăng cao tương ứng là 29,3% và 59,4%.
Như vậy tỉ lệ PNMK có marker hủy xương tăng
cao hơn so với marker tạo xương. Sự thay đổi
này làm rõ thêm hiện tượng tăng hủy xương,
mất cân bằng giữa hủy xương và tạo xương ở
PNMK. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với
các nghiên cứu của Garnero P(3), Seichi Y(9)[trích
9].
Mối liên quan giữa osteocalcin, beta‐
crosslap huyết thanh với mật độ xương
Nghiên cứu OFELY (Pháp) ở PNMK thấy
nếu BC huyết thanh tăng trên 2SD thì nguy cơ
gãy xương tại tất cả các vị trí sẽ tăng 2,1 lần(3)
[trích 5Error! Reference source not found.].
Trong một số nghiên cứu phân tích, can thiệp
Cabrera(1), Pino(9)[trích 9] đã xác định OC, BC là
những dấu ấn có độ nhạy và có tính đặc hiệu
cao trong dự báo nguy cơ mất xương, gãy
xương và theo dõi hiệu quả điều trị LX ở PNMK.
Năm 2011, Hiệp hội chống loãng xương thế giới
(IOF) và Hiệp hội sinh hóa lâm sàng và xét
nghiệm thế giới (IFCC) cũng đưa ra khuyến cáo:
OC, BC là hai marker có giá trị trong theo dõi
điều trị loãng xương và cho biết nguy cơ gãy
xương ở PNMK(9). Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy, mật độ xương ở PNMK xu
hướng thấp hơn ở nhóm có nồng độ OC, BC
huyết thanh tăng, tuy nhiên sự khác biệt là
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết quả
này dường như ủng hộ cho quan điểm marker
chu chuyển xương không được dùng để chẩn
đoán loãng xương.
Mối liên quan giữa nồng độ OC, BC huyết
thanh với tuổi
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi của chúng
tôi cho thấy nồng độ BC huyết thanh nhóm
PNMK ở tất cả các độ tuổi đều cao hơn có ý
nghĩa so với nhóm chứng, tuy nhiên mức độ
tăng cao hơn ở độ tuổi 55 ‐ 64 tuổi tương ứng
với thời kỳ tụt giảm nhanh nồng độ estradiol
huyết thanh và hủy xương tăng mạnh. Tương tự
với BC, nồng độ marker tạo xương OC huyết
thanh cũng tăng cao hơn và có ý nghĩa thống kê
ở nhóm PNMK 55 ‐ 64 tuổi (17,4 ± 10,7 ng/ml) và
< 55 tuổi (16,9 ± 10,0 ng/ml) so với nhóm chứng,
với p < 0,05. Tuy nhiên so sánh với các độ tuổi
khác trong nhóm MK thì sự khác biệt là không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Mối liên quan nồng độ OC, BC huyết
thanh với thời gian mãn kinh
Theo Mazzouli(5), Rosen [88] thấy sự mất
xương chiếm ưu thế trong khoảng 2 năm đầu
sau mãn kinh, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5, tạo
xương sẽ gia tăng để cân bằng giữa tạo xương –
hủy xương. Do vậy song hành cùng với sự gia
tăng của marker hủy xơng BC thì marker tạo
xương OC huyết thanh cũng sẽ tăng trong 5 ‐ 10
năm đầu sau mãn kinh tương ứng với độ tuổi từ
50 – 60 tuổi, tuy nhiên hủy xương chiếm ưu thế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 373
và BC tăng nhanh và mạnh hơn. Nghiên cứu
của chúng tôi thấy marker hủy xương BC tăng
cao có ý nghĩa ở tất cả các thời điểm MK so với
nhóm chứng (p < 0,001). Trong khi đó marker
tạo xương OC chỉ tăng cao ở giai đoạn 5 ‐ 10
năm đầu của MK còn ở những giai đoạn sau
không có sự khác biệt so với nhóm chứng.
Nhiều nghiên cứu cũng cho kết quả tương tự
với chúng tôi như Hồ Phạm Thục Lan(1),
Colman(2).
Mối liên quan OC, BC huyết thanh với
estradiol huyết thanh
Ở PNMK do sự sụt giảm estrogen dẫn tới
tăng hủy xương và tăng nguy cơ loãng xương(1)
[trích 1]. Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối
tương quan nghịch mức độ trung bình giữa
nồng độ estradiol huyết thanh và nồng độ BC
huyết thanh ở PNMK với hệ số tương quan r = ‐
0,35 và p < 0,05. Tuy nhiên không thấy có sự
khác biệt về phân mức OC huyết thanh với nồng
độ estradiol bình thường hoặc thấp (p > 0,05).
Kết quả này cho thấy tình trạng giảm nội tiết tố
nữ estradiol đi kèm chủ yếu với sự hủy xương
mạnh ở PNMK. Tác giả Garnero P (2001 ‐ Pháp)
cũng cho nhận định tương tự(3).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu các marker chu chuyển xương ở
123 PNMK và 38 phụ nữ trẻ chúng tôi rút ra kết
luận sau:
1. Nồng độ marker tạo xương OC và marker
hủy xương BC huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh
đều cao hơn có ý nghĩa so với nhóm phụ nữ trẻ
tuổi:
‐ Nồng độ OC, BC huyết thanh ở PNMK lần
lượt là 16,9 ± 9,2 ng/ml và 0,56 ± 0,30 ng/ml, đều
cao hơn nhóm PN trẻ tuổi, p = 0,05 và < 0,001.
‐ Tỉ lệ PNMK có OC huyết thanh tăng cao
29,3% và BC huyết thanh tăng cao 59,4%.
2. Liên quan giữa nồng độ osteocalcin và
beta‐crosslap huyết thanh với mật độ xương và
một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ
mãn kinh.
‐ Không thấy có sự khác biệt về mật độ
xương tại cổ xương đùi giữa các nhóm PNMK
có phân mức nồng độ osteocalcin và beta‐
crosslap huyết thanh khác nhau.
‐ Nồng độ marker tạo xương OC trung bình
tăng cao có ý nghĩa ở độ tuổi 55‐64 tuổi và ở thời
điểm 10 năm đầu của mãn kinh so với nhóm
phụ nữ trẻ tuổi, p < 0,05.
‐ Nồng độ marker hủy xương BC trung
bình tăng cao có ý nghĩa ở mọi độ tuổi của
PNMK, ở mọi thời điểm mãn ki