Mục tiêu: Xác định các yếu tố liên quan đến cuộc sanh của thai phụ vị thành niên và thai phụ hơn 19 tuổi
đến sanh tại bệnh viện Hùng vương.
Phương pháp: Từ 05/2009 đến 09/2009 tại bệnh viện Hùng vương Tp HCM, nghiên cứu bệnh chứng trên
756 thai phụ chia 2 nhóm, nhóm bệnh có 252 thai phụ vị thành niên, nhóm chứng có 504 thai phụ hơn 19 tuổi.
Các thai phụ được phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi vào ngày hậu sản thứ 2. Các yếu tố quan tâm: sanh nhẹ
cân, cách sanh, sanh non, tiền sản giật, thiếu máu, nhiễm HIV, nhiễm trùng sau sanh và chảy máu và tình trạng
hôn nhân.
Kết quả: Khi mang thai VTN có nguy cơ thiếu máu gấp 2 lần so với thai phụ trưởng thành với OR hiệu
chỉnh = 1,96, KTC 95% (1,28 – 3,00). Sanh mổ ở VTN thấp hơn 2 lần so với người trưởng thành với OR hiệu
chỉnh 0,45, KTC 95% (0,29 – 0,68). Hôn nhân chỉ được chấp nhận từ 1 phía ở VTN cao gấp 11 lần so với người
trưởng thành với OR hiệu chỉnh = 10,7, KTC 95% (4,6 – 24,8).
Kết luận: Việc lập gia đình và mang thai ở tuổi vị thành niên là thực trạng đáng quan tâm; cần chú ý các
đối tượng này cả về mặt tâm lý và xã hội, không khuyến khích trẻ mang thai và sanh đẻ ở độ tuổi này.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ trên thai kỳ của thai phụ vị thành niên sanh tại Bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 60
NGUY CƠ TRÊN THAI KỲ CỦA THAI PHỤ VỊ THÀNH NIÊN
SANH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Huỳnh Thị Bạch Tuyết*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các yếu tố liên quan đến cuộc sanh của thai phụ vị thành niên và thai phụ hơn 19 tuổi
đến sanh tại bệnh viện Hùng vương.
Phương pháp: Từ 05/2009 đến 09/2009 tại bệnh viện Hùng vương Tp HCM, nghiên cứu bệnh chứng trên
756 thai phụ chia 2 nhóm, nhóm bệnh có 252 thai phụ vị thành niên, nhóm chứng có 504 thai phụ hơn 19 tuổi.
Các thai phụ được phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi vào ngày hậu sản thứ 2. Các yếu tố quan tâm: sanh nhẹ
cân, cách sanh, sanh non, tiền sản giật, thiếu máu, nhiễm HIV, nhiễm trùng sau sanh và chảy máu và tình trạng
hôn nhân.
Kết quả: Khi mang thai VTN có nguy cơ thiếu máu gấp 2 lần so với thai phụ trưởng thành với OR hiệu
chỉnh = 1,96, KTC 95% (1,28 – 3,00).. Sanh mổ ở VTN thấp hơn 2 lần so với người trưởng thành với OR hiệu
chỉnh 0,45, KTC 95% (0,29 – 0,68). Hôn nhân chỉ được chấp nhận từ 1 phía ở VTN cao gấp 11 lần so với người
trưởng thành với OR hiệu chỉnh = 10,7, KTC 95% (4,6 – 24,8).
Kết luận: Việc lập gia đình và mang thai ở tuổi vị thành niên là thực trạng đáng quan tâm; cần chú ý các
đối tượng này cả về mặt tâm lý và xã hội, không khuyến khích trẻ mang thai và sanh đẻ ở độ tuổi này.
Từ khóa: Vị thành niên, kết cục thai kỳ, nghiên cứu bệnh chứng.
ABSTRACT
RISK FACTORS OF ADOLESCENTS GIVING BIRTHS AT HUNG VUONG HOSPITAL
Huynh Thi Bach Tuyet, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 60 - 65
Objective: To evaluate characteristics and outcomes of adolescent pregnant women giving births at Hung
Vuong hospitals.
Methods: A case – control study conducted from May 2009 to September 2009 at Hung vuong hospital.
There are 706 women pregnancy who had delivered, divided into 2 groups: Cases: 252 adolescent pregnant
women, Controls: 504 pregnant women over 19 years-old. After 2 days of deliveries, all woment in both groups
case and control, were interviewed by using the questionaires. Factors were interested such as: small gestation
age, delivery method, preterm labor, preeclaimpsia, anemia, HIV infected, post-partum infection, post-partum
hemorrhage and marriage status.
Result:Variables were found to be related to adolescent pregnant include: anaemia pregnancy (ORa= 1.96,
95%CI= 1.28- 3.00), cesarian (ORa= 0.45, 95%CI= 0.29-0.68), forced marriage (ORa= 10.7, 95%CI= 4.6-24.8).
Conclusion: Adolescent marriage and delivery is really a problem needs to pay attention for both of
health,psychosocial patterns. It is not encouraged to get pregnancy and give births in adolescence.
Keywords: Aldolescent, pregnancy outcome, case – control study.
* Đại học Y Phạm Ngọc Thạch, **Bộ môn Sản - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc : PGS. TS Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015. Email: tranghnk08@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 61
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), vị thành niên (VTN) là những người từ
10 đến 19 tuổi(12). Đây là giai đoạn chịu nhiều tác
động bởi những yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội.
Cũng trong giai đoạn này, trẻ có những thay đổi
mạnh mẽ về thể chất và tâm sinh lý tạo nên sự
chuyển tiếp từ thiếu niên thành người lớn thật
sự. Với trên 1,2 tỷ người, chiếm 1/6 tổng dân số
thế giới, VTN đã và đang trở thành nhóm đối
tượng thu hút sự quan tâm của nhiều chương
trình chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe
sinh sản.
Kết quả của nhiều nghiên cứu trên thế giới
cho thấy, mang thai ở tuổi VTN liên quan đến
nhiều nguy cơ về sức khỏe và xã hội. Thai kỳ
của trẻ VTN có nguy cơ cao bị thiếu máu, sanh
non, sanh nhẹ cân(1,5,10). Tỷ lệ mổ lấy thai cũng
cao hơn so với nhóm tuổi từ 20 trở lên vì thai
trình ngưng tiến triển, ngôi thai bất thường, thai
suy cấp trong chuyển dạ(1,10). Các nghiên cứu
cũng ghi nhận tỷ lệ những kết cục thai kỳ nguy
hiểm hơn như băng huyết sau sanh (BHSS),
nhiễm trùng hậu sản (NTHS) ở tuổi VTN khá
cao(1). Biến chứng liên quan đến thai kỳ và sanh
đẻ là một trong những nguyên nhân tử vong
hàng đầu ở bé gái từ 15 – 19 tuổi(6).
Việt Nam có 23,8 triệu người trong tuổi
VTN, chiếm 31% dân số. Số liệu của Chi cục
Thống kê, năm 1999, thành phố Hồ Chí Minh
có 1.013.738 VTN, chiếm 18,2% dân số(7).
Thống kê của Chi cục Thống kê năm 1995 –
2000 có đến 5% trẻ gái dưới 18 tuổi và 15% trẻ
dưới 19 tuổi trở thành những bà mẹ trẻ. Tại
một số quốc gia, có 30 – 60% thai kỳ của trẻ
VTN kết thúc bằng bỏ thai(12). Số lượng VTN đi
sanh, tai biến liên quan đến thai kỳ và sanh đẻ
ở nhóm tuổi này hiện vẫn chưa được báo cáo
chính thức tại các bệnh viện Sản Phụ khoa. Đó
là lý do chúng tôi tiến hành nghiên cứu khảo
sát nguy cơ trên thai kỳ của thai phụ vị thành
niên sanh tại bệnh viện Hùng Vương.
Mục tiêu của nghiên cứu
So sánh tỷ lệ sanh nhẹ cân, sanh giúp, mổ
lấy thai ở sản phụ vị thành niên với sản phụ >19
tuổi sanh tại bệnh viện Hùng Vương năm 2009.
Khảo sát về tiền sản giật, nhiễm HIV, thiếu
máu, băng huyết sau sanh, nhiễm trùng hậu sản,
sanh non tự phát ở sản phụ vị thành niên với
sản phụ >19 tuổi sanh tại bệnh viện Hùng
Vương năm 2009.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bệnh chứng không bắt cặp tỷ lệ
1 bệnh: 2 chứng.
Dân số đích là thai phụ vị thành niên, dân số
nghiên cứu: Nhóm bệnh những sản phụ ≤ 19
tuổi (sinh năm 1990 đến 1999), nhóm chứng thai
phụ >19 tuổi đến sanh tại bệnh viện Hùng
Vương năm 2009.
Thời gian từ 05/2009 đến 09/2009.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những thông tin thu thập từ sản phụ không
đầy đủ. Hồ sơ bệnh án không đầy đủ những
thông tin cần thu thập. Sản phụ không đồng ý
tiếp tục tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu như sau
( ) ( ) ( )
( )221
2
22111
2
1
11*1*2
pp
ppppzppz
n
−
⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
−+−+−−
=
−
−
βα
Với: Độ tin cậy 90%, năng lực mẫu 80%. P1:
tỷ lệ bệnh trong nhóm chứng (thai phụ VTN), P2:
tỷ lệ bệnh trong nhóm bệnh (thai phụ ≤ 19 tuổi).
Trong từng bệnh ta tính được cỡ mẫu lần lượt
như sau:
Mổ sanh: P1= 32%, P2 = 16,9% (8) Æ N1=170,
N2= 85.
Sanh giúp: P1=5,7%, P2=14,8%(9)Æ N1=226,
N2= 113.
Sanh nhẹ cân: P1=6,2%, P2=11,6%(8)Æ N1=504,
N2= 252.
Để khảo sát được cả 3 biến số trên, cỡ mẫu
tối thiểu cần có là 756 trường hợp, trong đó 252
sản phụ ≤ 19 tuổi và 504 sản phụ >19 tuổi. Tỷ lệ
bệnh: chứng là 1:2 (m = 2). Dùng phần mềm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 62
EpiInfo 6.0 để tính, cỡ mẫu tối thiểu là 756
trường hợp, trong đó 252 sản phụ ≤ 19 tuổi và
504 sản phụ >19 tuổi.
Chọn mẫu: Việc phỏng vấn đối tượng được
thực hiện vào thời điểm hậu sản ngày thứ 2, bởi
3 bác sĩ hoàn toàn không biết về mục tiêu nghiên
cứu và đã được tập huấn từ trước về cách thức
thu thập số liệu. Sau khi phỏng vấn trực tiếp các
đối tượng, tiến hành thu thập những thông tin
còn lại dựa theo hồ sơ bệnh án của sản phụ.
Trước khi tiến hành phỏng vấn, tất cả các
đối tượng đều được người phỏng vấn giải
thích về mục đích nghiên cứu, nếu sản phụ
đồng ý tham gia sẽ tiến hành phỏng vấn. Nếu
trong quá trình phỏng vấn thai phụ không
đồng ý tiếp tục tham gia nghiên cứu hoặc hồ
sơ bệnh án không ghi nhận đầy đủ những
thông tin cần thu thập, sản phụ sẽ được loại
khỏi nghiên cứu. Chọn sản phụ khác có số thứ
tự tiếp theo trong sổ sanh thỏa những tiêu
chuẩn chọn mẫu nêu trên, cùng nhóm, để thay
thế cho trường hợp bị loại.
Dữ kiện thu nhập được lưu trữ, phân tích
bằng phần mềm SPSS 13.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu.
Đặc điểm VTN
N = 252 (%)
>19 tuổi
N=504 (%)
Tuổi trung bình
(Min; Max)
18,2 ± 1
(14; 19)
27,1 ± 5,4
(20; 42)
Thu nhập riêng 205 (81,3) 497 (98,6)
Được hỗ trợ 47 (18,7) 7 (1,4)
Trình độ mù chữ
Cấp I
Cấp II
≥Cấp III
0
31 (12,3)
163 (51,6)
38 (15,1)
2 (0,4)
59 (11,7)
304 (5,9)
159 (31,5)
Kinh tế nghèo
Đủ ăn
Khá
28 (11,1)
213 (84,5)
11 (4,4)
34 (6,7)
424 (84,2)
46 (9,1)
Hôn nhân 1 phía
Đồng thuận
Tiền căn có phá thai
Không phá thai
39 (15,5)
213 (84,5)
24 (9,5)
228 (90,5)
7 (1,4)
497 (98,6)
76 (15,1)
428 (84,9)
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu có tuổi từ
14 đến 42, tuổi trung bình nhóm bệnh 18,2 ± 1 và
chứng 27,1 ± 5,4. Trình độ văn hóa của hai nhóm
đa số là cấp 2. Nhóm VTN lệ thuộc kinh tế
chiếm đa số (hơn 15 lần so nhóm trưởng thành).
Hôn nhân từ 1 phía (có một bên không đồng
thuận nhưng do có thai nên phải cưới) chiếm
hơn 15% ở nhóm VTN. Nhóm VTN có gần 10%
đã từng phá thai trước đó.
Bảng 2. Đặc điểm thai kỳ lần này.
Đặc điểm VTN
N=252 (%)
>19 tuổi
N=504 (%)
Tiền căn sản Chưa sanh 238 (94,4) 277 (54,9)
Đã sanh 14 (5,6) 227 (45,1)
Không khám 6 (2,4) 8 (1,6)
Khám không đủ 15 (5,9) 32 (6,3)
Số lần khám
thai
Khám đầy đủ 231 (91,7) 464 (92,1)
Có bổ sung sắt 234 (92,9) 491 (81,3)
Không bổ sung sắt 18 (7,1) 13 (25,7)
Nhận xét: Nhóm VTN có hơn 5% đã có 1
con. Số lần khám thai: Khoảng 6% sản phụ của
cả 2 nhóm đi khám thai không đầy đủ. Còn 2,4%
thai phụ vị thành niên và 1,6% sản phụ trưởng
thành hoàn toàn không đi khám thai trong thai
kỳ này. Bổ sung viên sắt: Hầu hết các sản phụ
đều có bổ sung viên sắt trong thai kỳ. Tuy nhiên,
tỷ lệ không uống viên sắt ở nhóm vị thành niên
cao gấp 3 lần so với nhóm trưởng thành.
Bảng 3. Các yếu tố liên quan kết cục sanh ở 2 nhóm.
Yếu tố OR KTC 95% p
Tiến sản giật 1,05 0,43 – 2,52 0,9
Thiếu máu 2,26 1,51 – 3,38 0,01
Sanh non 2,01 1,26 – 3,19 0,01
Sanh nhẹ cân 1,49 0,7 – 3,15 0,3
Sanh giúp 0,91 0,54 – 1,55 0,8
Sanh mổ 0,43 0,28 – 0,66 0,01
BHSS 1,35 0,55 – 3,24 0,6
NTHS 1,34 0,31 – 5,4 0,7
Nhiễm HIV 6,15 1,12 – 44,3 0,02
Hôn nhân 1 phía 13,0 5,5 – 32,4 0,001
BHSS: Băng huyết sau sanh; NTHS: nhiễm
trùng hậu sản.
Nhận xét: các yếu tố ghi nhận có ý nghĩa
thống kê liên quan kết cục sanh, các yếu tố nguy
cơ ghi nhận: tình trạng thiếu máu, sanh non,
sanh nhẹ cân, hôn nhân từ một phía. Riêng yếu
tố sanh mổ có ý nghĩa bảo vệ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 63
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố.
Yếu tố OR KTC95% p
Thiếu máu 1,96 1,28 – 3,0 0,01
Sanh non 1.31 0,7 – 2,3 0,36
Sanh nhẹ cân 1,56 0,9 – 2,8 0,13
Sanh mổ 0,45 0,29 – 0,68 0,01
Nhiễm HIV 3,65 0,6 – 21,9 0,16
Hôn nhân từ 1 phía 10,7 4,6 – 24,8 0,01
Nhận xét: Qua phân tích hồi quy đa biến có
3 yếu tố có liên quan đến thai kỳ VTN: hôn nhân
từ 1 phía với OR = 10,7 (95% CI 4,6 – 24,8). Trẻ
VTN kết hôn mà không được gia đình chấp
nhận hay bị ép cưới nhiều hơn 11 lần so với phụ
nữ trưởng thành. Thiếu máu với OR = 1,96 (95%
CI 1,28 – 3,00). Khi mang thai, trẻ vị thành niên
bị thiếu máu gấp 2 lần so với người trưởng
thành. Sanh mổ: OR = 0,45 (95% CI 0,29 – 0,68).
Tình trạng mổ lấy thai ở trẻ vị thành niên thấp
hơn 2 lần so với người trưởng thành.
BÀN LUẬN
Nhiều nghiên cứu về đặc điểm thai kỳ và kết
cục cuộc sanh của VTN trên thế giới, đặc biệt là
nhóm 15 – 16 tuổi liên quan đến nhiều kết cục
không tốt hơn so với VTN 18 – 19 tuổi(1,5,11).
Trong phân tích “khuynh hướng thời điểm
kết hôn”, Mensch cho biết có mối tương quan
mạnh giữa học vấn và tuổi kết hôn ở các nước
Tây và Trung Phi(4). Trẻ bỏ học càng sớm càng có
khuynh hướng kết hôn ở tuổi nhỏ so với trẻ đi
học nhiều hơn. Trong mẫu nghiên cứu của
chúng tôi có 85% trẻ vị thành niên đã kết hôn
với sự đồng tình ủng hộ của cả 2 gia đình và bản
thân trẻ. Mặc dù trong số đó có đến hơn 3/4 là
chưa được sự công nhận của pháp luật. Chúng
tôi cũng ghi nhận được 28/252 trường hợp kết
hôn vì bị bắt buộc, trong đó chúng tôi xét cả việc
bị ép gả và buộc phải kết hôn do có thai trước.
Trường hợp nhỏ tuổi nhất trong nghiên cứu của
chúng tôi thuộc nhóm này. Nghiên cứu cho thấy
tỷ lệ hôn nhân chỉ được chấp nhận từ 1 phía (chỉ
từ phía đối tượng hoặc chỉ từ phía gia đình đối
tượng) trong nhóm sản phụ VTN cao hơn gấp
13 lần so với nhóm sản phụ trưởng thành, với p
< 0,1 qua phân tích đơn biến. Khi phân tích đa
biến, yếu tố hôn nhân từ 1 phía vẫn có ý nghĩa
thống kê với biến số tuổi với OR là 10,7 và p <
0,01 (bảng 4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 81%
vị thành niên có khả năng tài chính độc lập, thu
nhập có được từ vợ hoặc chồng hoặc cả hai
người. Vẫn còn 19% cần có sự hỗ trợ kinh tế từ
gia đình, bạn bè hay người thân. Có 94,4% vị
thành niên trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi
đi sanh lần đầu tiên, 5,6% còn lại là đi sanh lần
thứ 2. Tại Châu Á, đa số các gia đình muốn đôi
vợ chồng có con sớm sau khi cưới, vì vậy việc có
con ở tuổi vị thành niên vẫn còn được xem như
chuyện bình thường về phương diện gia đình.
Nghiên cứu của chúng tôi có 91,6% trong
nhóm VTN và 92,1% trong nhóm thai phụ
trưởng thành đi khám thai đầy đủ theo khuyến
cáo của Bộ Y tế tương tự nghiên cứu của Phạm
Ngọc Đoan Trang (2008), có 83,3% thai phụ VTN
khám thai từ 3 lần trở lên(8).
Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, sắt cần được
bổ sung càng sớm càng tốt, cần uống mỗi ngày
một viên khi mang thai và một tháng sau
sanh(3). Nghiên cứu của chúng tôi có trên 90%
thai phụ ở cả 2 nhóm không uống bổ sung
viên sắt khi mang thai. Tỷ lệ không uống bổ
sung viên sắt ở nhóm VTN cao gấp 3 lần ở
nhóm thai phụ trưởng thành (p < 0,001). Lý do
khiến thai phụ không uống bổ sung viên sắt
mà chúng tôi ghi nhận được là do không thích
uống, thấy không cần thiết phải uống và đặc
biệt là vì không biết là cần thiết phải uống bổ
sung viên sắt khi mang thai.
Tổ chức Y tế thế giới ghi nhận thai phụ VTN
không có mối liên quan đặc biệt giữa tuổi và
tình trạng cao huyết áp thai kỳ. Tuy nhiên, vì
cao huyết áp thai kỳ thường xuất hiện ở người
con so nên khi VTN mang thai lần đầu sẽ có
khuynh hướng phát triển bệnh lý này(12). Theo
phân tích gộp của Theresa O. Sholl trên người
con so, cho biết có sự tăng nguy cơ cao huyết áp
thai kỳ ở những phụ nữ trẻ tuổi(10). Tại Việt
Nam, Võ Minh Tuấn (1996) tại bệnh viện Hùng
Vương ghi nhận VTN có nguy cơ bị bệnh lý tiền
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 64
sản giật cao hơn so với người trưởng thành(9).
Có thể do cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng
tôi chưa đủ lớn khi phân nhóm để tìm thấy sự
khác biệt có ý nghĩa.
Phân tích gộp của Theresa O. Sholl cho biết
có mối tương quan giữa tuổi mẹ trẻ và nguy cơ
thiếu máu. Nguy cơ thiếu máu cao nhất xảy ra ở
nhóm VTN nhỏ 15 tuổi (1). Trong nghiên cứu
chúng tôi, tỷ lệ thiếu máu ở thai phụ VTN
25,4%. Tương tự Theresa O. Sholl, sau khi tiến
hành phân tích đa biến, chúng tôi nhận thấy thai
phụ VTN trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi
có nguy cơ thiếu máu cao gấp 2 lần so với người
trưởng thành.
Nhiều tác giả cho rằng ở vị thành niên do
xương chậu còn đang trong giai đoạn phát triển
nên có khả năng phải sanh giúp nhiều hơn so
với người trưởng thành. Agustin Conde-
Agudelo cho biết tỷ lệ sanh giúp ở VTN 3,5%,
cao gấp 1,24 lần so với thai phụ trưởng thành(1).
Võ Minh Tuấn (2006) ghi nhận sanh giúp ở VTN
là 14,8% và ≥ 20 tuổi là 5,7%(9). Phạm Ngọc Đoan
Trang ghi nhận tỷ lệ này là 8,9%(8). Kết quả của
chúng tôi cho thấy tỷ lệ sanh giúp trong nhóm vị
thành niên là 10,7%, tương đương Phạm Ngọc
Đoan Trang. Chúng tôi không tìm thấy mối
quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa nhóm VTN
với tình trạng sanh giúp.
Theo Theresa O. Sholl, ở các nước phát triển,
nguy cơ sanh mổ ở trẻ vị thành niên thấp hơn so
với người trưởng thành. Trái lại, ở các nước
đang phát triển, trẻ dưới 20 tuổi có nguy cơ phải
mổ lấy thai cao hơn 1,27 lần so với phụ nữ
trưởng thành(10). Tại Việt Nam, Võ Minh Tuấn
ghi nhận tỷ lệ mổ sanh ở VTN là 17%, tương
đương với người trưởng thành(9). Chúng tôi ghi
nhận được tỷ lệ mổ sanh ở VTN là 13,5%, thấp
hơn của Võ Minh Tuấn và Phạm Ngọc Đoan
Trang. Có thể do trong nghiên cứu này, tỷ lệ
VTN 18 – 19 tuổi khá cao, giai đoạn này sự phát
triển cơ thể của trẻ đã gần hoàn thiện, gần giống
với người trưởng thành vì vậy trẻ có thể có khả
năng sanh ngã âm đạo cao hơn so với các nghiên
cứu có nhiều VTN ≤ 17 tuổi.
Thai phụ VTN có nguy cơ nhiễm HIV cao
hơn so với người trưởng thành. Phân tích đơn
biến của chúng tôi ở thai phụ VTN tỷ lệ nhiễm
HIV cao hơn gấp 6 lần so với người trưởng
thành. Tuy nhiên, chỉ có 8 trường hợp nhiễm
HIV trong tổng số 756 trường hợp sanh. Có thể
do mẫu nên khi tiến hành phân tích đa biến,
nhiễm HIV không là yếu tố liên quan đến thai
VTN (12).
Theo Võ Minh Tuấn tỷ lệ BHSS ở VTN là
2,5%(9). Phạm Ngọc Đoan Trang chỉ 0,52%(8). Tỷ
lệ băng huyết sau sanh theo chúng tôi là 4% ở
nhóm VTN và 3% ở người trưởng thành. Chúng
tôi không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa
thống kê giữa BHSS và lứa tuổi vị thành niên.
Agustin Conde-Agudelo tìm thấy 9% trẻ
VTN bị viêm nội mạc tử cung sau sanh. Nguy cơ
viêm nội mạc tử cung sau sanh của VTN cao gấp
2 lần so với nhóm 20 – 24 tuổi. Đặc biệt ở VTN ≤
15 tuổi, nguy cơ này tăng lên gấp 3,81 lần(1). Võ
Minh Tuấn ghi nhận tỷ lệ NTHS 4%(9). Phạm
Ngọc Đoan Trang 1,3%(8). Tỷ lệ NTHS ở VTN là
4% và người trưởng thành là 3% trong nghiên
cứu này.
Theo nghiên cứu của Alison M. Fraser, tỷ
lệ sanh non ở nhóm ≤ 17 tuổi là 10%, nhóm 18
– 19 tuổi là 8% và ở nhóm 20 – 24 tuổi là 5%.
Tác giả cũng nhận thấy nhóm vị thành niên 13
– 17 tuổi có nguy cơ sanh non cao gấp 1,9 lần
thai phụ 20 – 24 tuổi(2). Agustin Conde-
Agudelo nhận thấy có 10,8% thai kỳ vị thành
niên kết thúc trước 37 tuần. Phạm Ngọc Đoan
Trang ghi nhận sanh non ở nhóm VTN là
29,4%(8). Khảo sát đơn biến chúng tôi ghi nhận
tỷ lệ sanh non trong VTN cao gấp 2 lần trong
nhóm thai phụ trưởng thành. Tuy nhiên khi
phân tích đa biến, sanh non không còn là yếu
tố liên quan độc lập với tuổi VTN.
Alison M. Fraser tìm thấy có 7% trẻ ≤ 17 tuổi,
5% trẻ 18 – 19 tuổi sanh con nhẹ cân. Trong khi
đó, tỷ lệ sanh nhẹ cân ở nhóm 20 – 24 tuổi chỉ
chiếm 4%. Tác giả cũng cho biết, ở những phụ
nữ không được chăm sóc trước sanh nay đầy đủ
sẽ tăng nguy cơ sanh nhẹ cân lên gấp đôi(2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 65
Trong nghiên cứu của Agustin Conde-Agudelo
cũng nhận thấy trẻ vị thành niên có nguy cơ
sanh con nhẹ cân cao gấp 1,25 lần so với phụ nữ
20 – 24 tuổi(1). Võ Minh Tuấn thấy có 19% VTN
sanh con nhẹ cân(9). Phạm Ngọc Đoan Trang có
11,6% VTN sanh con < 2500g (8). Tỷ lệ sanh con
nhẹ cân ở nhóm vị thành niên trong nghiên cứu
của chúng tôi gần tương đương của Võ Minh
Tuấn, chiếm 18,3%. Tiến hành phân tích đơn
biến và đa biến chúng tôi đều không tìm thấy
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa mang thai
ở tuổi VTN với việc sanh con nhẹ cân.
Hạn chế
Đây là một nghiên cứu bệnh chứng nên
nghiên cứu có một số hạn chế như sau:
Có sự sai lệch do nhớ lại, nhất là những yếu
tố từ lúc thai phụ mới bắt đầu mang thai. Do cỡ
mẫu không đủ lớn nếu phân theo nhóm tuổi nên
chúng tôi chưa thể tìm thấy hết được những
nguy cơ trong nhóm đối tượng VTN. Tình trạng
nhiễm HIV trên nhóm đối tượng vị thành niên
chưa được khảo sát cụ thể về thời điểm nhiễm
bệnh so với thời điểm mang thai.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu bệnh chứng 756 đối tượng
với 252 sản phụ vị thành niên và 504 sản phụ
>19 tuổi sanh tại bệnh viện Hùng Vương. Chúng
tôi rút ra kết luận:
Khi mang thai VTN có nguy cơ thiếu máu
gấp 2 lần so với thai phụ trưởng thành với OR
hiệu chỉnh = 1,96, KTC 95% (1,28 – 3,00).
Sanh mổ ở VTN thấp hơn 2 lần so với người
trưởng thành với OR hiệu chỉnh 0,45,