Thành quả của cuộc cách mạng công nghệ thông tin là sự hình thành xã hội thông tin và
tiến tới xã hội tri thức. Trong đó, xã hội thông tin là nền tảng của xã hội tri thức, là phương tiện để
xây dựng xã hội tri thức, là chìa khóa để tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn.
Xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có mối quan hệ bổ sung tương hỗ lẫn
nhau. Trong đó, xã hội thông tin gắn liền với “các đổi mới công nghệ” và khái niệm Internet. Đó
là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức
là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ Internet. Trong khi đó, xã
hội tri thức gắn liền với sự đổi mới tổng thể các khía cạnh về xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị và
pháp luật [8]. Như vậy, khái niệm xã hội tri thức phản ánh đầy đủ hơn tính phức tạp và linh hoạt
của các thay đổi đã diễn ra.
Trên góc độ văn minh, xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có điểm gặp
nhau, vì thế có sự lẫn lộn trong cách hiểu. Nền kinh tế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng thông tin
cao được gọi là nền kinh tế tri thức. Trong khi đó, có nhiều người quan niệm xã hội thông tin
đồng nghĩa với kinh tế tri thức và kinh tế tri thức lại đồng nghĩa với xã hội tri thức. Theo quan
niệm của nhiều người, xã hội thông tin và xã hội tri thức cũng có thể được dùng thay thế cho nhau
[2]
12 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 827 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân lực thông tin-Thư viện trong xã hội thông tin và xã hội tri thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÂN LỰC THÔNG TIN-THƯ VIỆN TRONG XÃ HỘI THÔNG TIN
VÀ XÃ HỘI TRI THỨC
TSKH. Nguyễn Thị Đông*
Thành quả của cuộc cách mạng công nghệ thông tin là sự hình thành xã hội thông tin và
tiến tới xã hội tri thức. Trong đó, xã hội thông tin là nền tảng của xã hội tri thức, là phương tiện để
xây dựng xã hội tri thức, là chìa khóa để tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn.
Xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có mối quan hệ bổ sung tương hỗ lẫn
nhau. Trong đó, xã hội thông tin gắn liền với “các đổi mới công nghệ” và khái niệm Internet. Đó
là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức
là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ Internet. Trong khi đó, xã
hội tri thức gắn liền với sự đổi mới tổng thể các khía cạnh về xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị và
pháp luật [8]. Như vậy, khái niệm xã hội tri thức phản ánh đầy đủ hơn tính phức tạp và linh hoạt
của các thay đổi đã diễn ra.
Trên góc độ văn minh, xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có điểm gặp
nhau, vì thế có sự lẫn lộn trong cách hiểu. Nền kinh tế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng thông tin
cao được gọi là nền kinh tế tri thức. Trong khi đó, có nhiều người quan niệm xã hội thông tin
đồng nghĩa với kinh tế tri thức và kinh tế tri thức lại đồng nghĩa với xã hội tri thức. Theo quan
niệm của nhiều người, xã hội thông tin và xã hội tri thức cũng có thể được dùng thay thế cho nhau
[2].
Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ chủ thể sáng tạo thì có thể dễ dàng phân biệt được rõ ràng
hơn ý nghĩa của hai khái niệm này. Khi nói xã hội thông tin là xuất phát từ góc độ người phát.
Còn khi nói xã hội tri thức là từ góc độ người nhận. Nếu đứng từ góc độ người phát thì thông tin
mang nặng tính thương mại và thị trường hàng hóa. Còn đứng từ góc độ người nhận, thông tin
mang nặng tính phục vụ cho mục đích sáng tạo của con người [2]. Trên quan điểm “tri thức phải
là tài sản chung của loài người chứ không thể là hàng hóa trao đổi”, xã hội tri thức quan tâm hơn
tới việc hiểu và sử dụng thông tin của người nhận hơn là cho mục đích thương mại. Vì thế xã hội
tri thức mang ý nghĩa nhân quyền cao hơn, và vì thế ý nghĩa đạo đức nhân quyền của xã hội tri
thức cũng cao hơn. Điều này phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của xã hội loài người, do
vậy, việc chuyển sang xã hội tri thức là một xu hướng tất yếu và khoa học, phù hợp với sự tiến bộ
xã hội của mọi quốc gia nói chung.
Theo quan điểm của Vụ các vấn đề kinh tế và xã hội của LHQ (DESA), bản chất của xã hội
tri thức là sự phát triển tri thức, nghĩa là, việc tạo ra ý nghĩa mới, tạo ra giá trị gia tăng của thông
tin thông qua việc xử lý một cách sáng tạo của con người đối với thông tin có sẵn, và được đo
*
PGĐ Trung tâm Thông tin Khoa học Thống kê.
lường bằng khả năng ứng dụng hay tính hữu ích to lớn/hoặc mới mẻ của thông tin đã được xử lý
so với thông tin có sẵn ban đầu. DESA cho rằng, một xã hội đạt tới trình độ tạo ra ý nghĩa mới
(hay tri thức mới) trên qui mô sản xuất hàng loạt, và có khả năng áp dụng các tri thức mới đó trên
qui mô hàng loạt thì mới được gọi là xã hội tri thức [4].
Vậy, giáo dục và đào tạo giữ vai trò gì trong quá trình chuyển từ xã hội thông tin sang xã
hội tri thức? Giáo dục và đào tạo dù ở hình thái nào, truyền thống hay hiện đại, đều giữ vai trò vô
cùng quan trọng cho quá trình hình thành một xã hội công minh. Hình thái giáo dục và đào tạo
hiện đại đòi hỏi phải bổ sung thêm nguyên tắc “hình thành sự hiểu biết (tinh thông) nghề nghiệp”
vào nguyên tắc truyền thống “hình thành kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp” cho học
viên [8].
Sự tinh thông nghề nghiệp phản ánh mối quan hệ giữa kiến thức, kỹ năng và hành động của
mỗi cá nhân. Sẽ không thể có sự tinh thông nghề nghiệp nếu thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm. Nhưng không phải mọi kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong bất kỳ tình huống nào
đều là biểu hiện của sự hiểu biết. Theo ý kiến của các chuyên gia thuộc Uỷ ban Châu Âu về giáo
dục và đào tạo, có 5 nhóm kiến thức cơ bản cần có của mọi công dân trong xã hội thông tin và xã
hội tri thức như sau [12]:
- Nhóm kiến thức về chính trị và xã hội, đó là khả năng nhận về mình trách nhiệm, tham
gia đóng góp vào các quyết định chung, giải quyết sung đột bằng con đường hòa bình và tăng
cường thực hiện qui chế dân chủ.
- Nhóm kiến thức có liên quan tới cuộc sống trong xã hội đa dạng văn hóa. Giáo dục và
đào tạo cần trang bị cho thanh niên các hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau, cụ thể là các hiểu
biết về đặc điểm các nền văn hóa, hành vi ứng xử tôn trọng lẫn nhau, cũng như khả năng sống với
mọi người không có đồng văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo.
- Nhóm kiến thức có liên quan tới giao tiếp bằng lời và khả năng trình bày văn bản, trong
đó, cần phải biết thêm tối thiểu một ngoại ngữ. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Nhóm kiến thức có liên quan tới xã hội thông tin, như biết cách sử dụng các công nghệ
mới, biết ứng dụng chúng vào hoạt động của bản thân, hiểu được mặt mạnh và mặt yếu của
chúng, cũng như khả năng phê phán trong đánh giá các kênh thông tin và quảng cáo.
- Khả năng không ngừng học tập và bồi dưỡng kiến thức trong suốt cuộc đời nghề nghiệp
cũng như trong đời sống cá nhân và xã hội của mình.
Như vậy, ngoài trang bị các kiến thức cơ bản nói trên, giải quyết vấn đề nâng cao chất
lượng đào tạo nói chung và nhân lực thông tin - thư viện nói riêng đòi hỏi phải lưu ý tới các yếu tố
mang tính đặc trưng của hệ thống giáo dục và đào tạo hiện đại là:
• Phát triển xã hội thông tin và tiến tới xã hội tri thức;
• Thay thế hình thái “học suốt đời” bằng “học trong suốt cuộc đời”
• Bổ sung nguyên tắc “hình thành sự hiểu biết (tinh thông) nghề nghiệp” vào nguyên tắc
truyền thống “hình thành kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp” cho học
viên.
Để khắc phục những hạn chế của xã hội thông tin, theo đề xuất của UNESCO, cần thiết lập
một xã hội học hành, bảo tồn đa dạng tri thức trên nguyên tắc tối cao là đảm bảo quyền truy cập
thông tin và tri thức cho tất cả mọi người. Theo quan điểm của UNESCO, tri thức phải là tài sản
chung của toàn nhân loại và mọi người đều có quyền tự do tiếp cận tri thức. Do vậy, cần phải có
sự dung hòa giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với việc thúc đẩy phổ biến rộng rãi tri thức trong
cộng đồng. Ở đây Thư viện giữ một vai trò cực kỳ quan trọng - trung gian kết nối giữa người dùng
với thông tin và tri thức trên cơ sở dung hòa quyền sở hữu trí tuệ trong phổ biến thông tin phục vụ
mục tiêu tiến bộ xã hội. Hơn nữa, Thư viện là nơi lưu giữ khối lượng tri thức khổng lồ, chiếm 2/3
tri thức tích lũy được của nhân loại để truyền lại qua các thế hệ, đồng thời, cho đến nay Thư viện
vẫn là một thể chế xã hội duy nhất phục vụ thông tin công cho mọi đối tượng người sử dụng .
Khẩu hiệu “Thư viện - trái tim của xã hội thông tin” do IFLA đưa ra [11] đã phản ánh
chính xác sứ mệnh của Thư viện trong giải quyết một trong các vấn đề mang tính chiến lược của
xã hội hiện đại, đó là đảm bảo quyền tự do truy cập thông tin và tri thức cho mọi công dân. Có thể
nói, Thư viện là tấm gương phản chiếu rõ nét về mức độ tiến bộ xã hội của một quốc gia. Bởi vì,
một xã hội không thể được coi là tiến bộ khi trong đó con người thiếu văn hóa, thiếu cơ sở thông
tin và tri thức cho giáo dục và đào tạo. Vì thế, sự tụt hậu trong hiện đại hóa Thư viện là nguy cơ
tụt hậu không chỉ của Thư viện hoặc thậm chí của nền văn hóa, mà còn của cả quốc gia nói chung.
Do vậy, Thư viện phải trở thành một cấu thành hữu cơ không thể tách rời trong xây dựng cấu trúc
hệ thống hạ tầng thông tin mới. Vấn đề hiện đại hóa hệ thống thư viện phải được giải quyết tổng
thể và toàn diện bằng các chính sách quốc gia thống nhất trên phạm vi cả nước. Quan trọng hơn
là, cần hiện đại hóa tư duy con người trong quá trình triển khai hiện đại hóa sự nghiệp Thư viện,
cần phải hiểu khái niệm hiện đại hóa là quá trình đổi mới và hoàn thiện không ngừng các mắt xích
cấu thành hệ thống, trong đó yếu tố con người luôn giữ vai trò quyết định trong giải quyết các vấn
đề phức tạp nhất của hệ thống.
Trong thế kỷ 21, Thư viện đã trở thành trung tâm thông tin tư liệu lớn, trong đó tập trung
vốn tư liệu khổng lồ ở dạng in giấy và điện tử, là cơ quan phục vụ tra cứu và đáp ứng cao nhất
nhu cầu thông tin của xã hội. Ngoài ra, trong thời đại số, ngày càng gia tăng vai trò của Thư viện
trong tổ chức đào tạo điện tử và Thư viện đã trở thành trung tâm nguồn lực thông tin phục vụ đắc
lực cho quá trình hiện đại hóa sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện đại, Thư viện có bị thay thế
bởi Internet không?
Trước đây khuynh hướng sùng bái Internet đã khiến nhiều người cho rằng Internet có thể
thay thế được cho Thư viện truyền thống. Gần đây khi thư viện số trở nên thịnh hành khắp nơi, lại
có quan điểm cho rằng Internet và thư viện số là một. Quan niệm này hoàn toàn không đúng, bởi
vì, Internet thiếu hẳn những đặc tính quan trọng trong việc sưu tầm, tổ chức sắp xếp, lưu giữ và
phục vụ thông tin. Trong khi đó, thư viện số ngày càng được hoàn thiện về tổ chức và công nghệ,
hơn nữa, công nghệ xây dựng thư viện số về cơ bản được dựa trên nền tảng của thư viện truyền
thống. Như vậy, thư viện số chỉ là sự hiện hình khác của thư viện truyền thống trong bối cảnh
công nghệ thông tin hiện đại. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, Internet không thể là sự
thay thế hoàn thiện cho Thư viện.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, trong hoạt động của thư viện
truyền thống và khoa học thông tin đã xuất hiện sự “can thiệp” của các cộng sự khác thuộc lĩnh
vực công nghệ thông tin, phân tích hệ thống, dịch vụ tư vấn và thậm chí của cả các nhà kinh tế.
Do ảnh hưởng của Internet, sự gia tăng nhu cầu tin và quản trị thông tin, cũng như sự thiếu hiểu
biết của các cộng sự trên về ý nghĩa lý thuyết và thực hành của thư viện học và khoa học thông tin
đã dẫn tới việc xem thường nghiệp vụ thông tin - thư viện. Vì thế, việc đào tạo nhân lực cho các
thư viện hiện đại đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ bản về quan điểm trong tổ chức và nội dung đào
tạo.
Nếu chúng ta thực sự coi Thư viện là trái tim của xã hội thông tin và xã hội tri thức thì vấn
đề đào tạo nguồn nhân lực thông tin - thư viện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản
nhất của giáo dục và đào tạo nghề thông tin - thư viện là làm sao để sinh viên có thể định hướng
được một cách chuyên nghiệp trong khối công nghệ bao la, nắm bắt được các kỹ năng cần thiết để
nghiên cứu phát triển các hướng ứng dụng công nghệ hiện đại vào thực tiễn hoạt động thông tin -
thư viện. Trên góc độ này, việc thay đổi quan điểm trong đào tạo thông tin - thư viện không thể
tách rời với các đổi thay có liên quan tới xã hội thông tin, xã hội tri thức, cũng như đặc điểm của
hình thái giáo dục và đào tạo hiện đại.
Các yếu tố đặc trưng của xã hội thông tin và xã hội tri thức cần phải được tính đến trong
đào tạo nguồn nhân lực cho bất kỳ lĩnh vực nào, đặc biệt là nguồn nhân lực thông tin - thư viện, vì
đó là đội ngũ được trao sứ mệnh hiện thực hóa ý tưởng của xã hội thông tin và xã hội tri thức vào
thực tiễn cuộc sống. Các đặc trưng cơ bản của xã hội thông tin và xã hội tri thức thể hiện ở các khía
cạnh sau [8]:
- Thông tin và tri thức là sức mạnh chính để cải biến xã hội, nguồn lực thông tin là nguồn
lực chiến lược quan trọng của xã hội.
- Tin học hóa toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin-truyền thông là
cơ sở của nền kinh tế mới - nền kinh tế tri thức.
- Đặc tính mới mẻ, nhanh chóng, tăng tốc là những khía cạnh đặc trưng của cuộc sống hiện
đại.
- Vòng đời của công nghệ trong sản xuất cũng như trong xã hội chỉ còn 6-8 năm.
- Đào tạo không ngừng và khả năng chuyển nghề là phần không thể tách rời để duy trì vị
thế xã hội của mỗi cá nhân.
- Số phận của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng chiếm lĩnh, thu nhận kịp thời, lĩnh hội
thích hợp và sử dụng sáng tạo những thông tin mới.
Với các đặc trưng trên, do tác động của sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường lao động
và sự đa dạng nghề nghiệp đòi hỏi phải tăng cường quá trình đa cấp độ hóa trong đào tạo nghề.
Bản chất của khái niệm “đa cấp độ hóa” thể hiện ở xu hướng nhiều cấp độ (trình độ) trong phát
triển giáo dục và đào tạo. Đa cấp độ hóa trong đào tạo nhân lực thông tin - thư viện là xu hướng
xã hội-sư phạm mới về chất trong cải cách đào tạo nguồn nhân lực ở lĩnh vực này, phản ánh quá
trình nghề nghiệp hóa trong đào tạo mà bản chất của nó được thể hiện rõ nét ở nội dung đào tạo
tiếp tục về thông tin - thư viện. Đa cấp độ hóa trong đào tạo nhân lực thông tin - thư viện là mệnh
lệnh khách quan của thời đại và phù hợp với khuyến nghị của IFLA, theo đó “đào tạo thông tin -
thư viện phải đáp ứng nhu cầu của từng nước về chính trị, kinh tế, xã hội, trình độ phát triển kỹ
thuật và đặc điểm của các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo cần thực hiện đào tạo thông tin - thư
viện ở các trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ theo sự phân loại của INESCO” [7].
Đa cấp độ hóa trong đào tạo thông tin - thư viện được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
Thay đổi toàn diện và phát triển các hệ thống cơ cấu-chức năng, các hình thức đào tạo mới có
nhiều cấp độ với thời gian đào tạo khác nhau đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của thị trường lao
động; bên cạnh các cơ sở đào tạo công lập cần phát triển các loại hình đào tạo ngoài công lập,
cũng như đa dạng hóa các dịch vụ đào tạo và bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; phát triển danh mục
các chuyên ngành theo kịp với nhu cầu của thị trường lao động; mở rộng các chương trình đào tạo
theo hướng đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi về giáo dục và đào tạo của xã hội. Thực tế đã chứng minh
rằng, đa cấp độ hóa làm cho hệ thống đào tạo trở lên mềm dẻo và linh hoạt hơn, có thể đáp ứng
cao hơn và đa dạng hơn nhu cầu về nhân lực của thị trường lao động.
Nghiên cứu tài liệu nước ngoài cho thấy, đa số các nước trong cộng đồng Châu Âu, trong đó có
Liên bang Nga đã thực hiện đào tạo đại học thông tin - thư viện theo chuẩn hai giai đoạn: Cử nhân và
thạc sỹ, cho phép học viên có thể linh hoạt lựa chọn chuyên ngành và có thể tiếp tục bồi dưỡng chuyên
sâu trong tương lai về chuyên ngành đã chọn. Đồng thời cộng đồng Châu Âu cũng đã xây dựng chương
trình đào tạo, trong đó kết hợp hai trình độ cử nhân và thạc sỹ vào khuôn khổ chương trình đào tạo đại
học thông tin - thư viện [1]. Trong khi đó ở Việt Nam, bậc thạc sỹ được coi là trình độ sau đại học.
Với chuẩn đào tạo hai giai đoạn này trong đào tạo đại học thông tin - thư viện, nội dung đào tạo
cử nhân tập trung vào truyền tải các kiến thức nền tảng về nghề nghiệp, còn nội dung đào tạo thạc sỹ
gồm các kiến thức chuyên ngành cụ thể phụ thuộc vào vị trí công việc tương lai theo chuyên ngành đã
chọn của học viên. Nội dung đào tạo thạc sỹ có thể được thực hiện theo hình thức truyền đạt cá nhân
(thày và trò) với khối lượng lớn về kỹ năng thực hành có lưu ý tới các đặc tính của vị trí làm việc và
triển vọng phát triển nghề nghiệp trong tương lai của học viên. Như vậy, trình độ cử nhân trong đào tạo
đại học thông tin - thư viện là nền tảng để sinh viên có thể linh hoạt thay đổi môn học, thay đổi trường
đào tạo và thậm chí cả quốc gia cho học tiếp bậc thạc sỹ.
Đa cấp độ hóa trong đào tạo thông tin - thư viện ở Liên bang Nga được thể hiện ở mô hình
đề xuất cơ cấu tổ chức đào tạo thông tin - thư viện trong tương lai [13]. Đặc điểm nổi bật của mô
hình này là, thừa nhận quyền lựa chọn chuyên ngành của học viên sau khi kết thúc giai đoạn đào
tạo nghề bắt buộc đối với tất cả sinh viên trong 3 năm đầu. Ở giai đoạn tiếp theo, sinh viên sẽ
được phân bổ về các khoa (hoặc phân theo giáo viên bộ môn) để tiến hành đào tạo chuyên sâu
trong 2 năm. Theo đó, ngoài các khóa học theo chuyên ngành đã chọn, học viên phải thực hiện
chương trình thực tập bắt buộc phù hợp với chuyên ngành đã chọn của mình. Khi kết thúc hai giai
đoạn đào tạo này (5 năm thay vì 4 năm như trước đây) học viên sẽ được nhận bằng cử nhân và có
thể hoặc đi làm luôn theo chuyên ngành đã học, hoặc tiếp tục theo học thạc sỹ ngay, hoặc cũng có
thể hoàn thiện chuyên ngành đã chọn ở bậc thạc sỹ sau vài năm làm việc tại các cơ quan thông tin
- thư viện. Các cá nhân có bằng thông tin - thư viện, hoặc không có bằng thông tin - thư viện,
cũng như các nhà quản lý trong lĩnh vực thông tin - thư viện ở các trình độ nghiệp vụ khác nhau
đều có cơ hội được đào tạo phù hợp với khuôn khổ chung trong cơ cấu tổ chức đào tạo tiếp tục về
thông tin - thư viện. Với mô hình đào tạo này, việc tiếp tục trau dồi các kỹ năng thực hành được
thực hiện thông qua các khóa học bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ theo chuyên ngành đã chọn.
Việc đào tạo tiếp tục về các kiến thức lý luận thông tin - thư viện có thể tiến hành thông qua đào
tạo tiến sỹ và tiến sỹ khoa học về lĩnh vực này.
Quá trình hiện đại hóa và nâng cao vai trò xã hội của Thư viện trong bối cảnh xã hội thông
tin và xã hội tri thức đòi hỏi phải hình thành các kỹ năng nghề nghiệp mới ở đội ngũ cán bộ thông
tin - thư viện, đặc biệt là các kỹ năng có liên quan tới thu thập, xử lý, lưu trữ, tìm kiếm, khai thác
và phổ biến thông tin. Tuy nhiên, vấn đề “dạy ai, dạy cái gì và dạy như thế nào” trong đào tạo
thông tin - thư viện hiện nay vẫn chưa có lời giải thỏa đáng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế
giới.
Trong bối cảnh hiện nay, cần lưu ý tới vai trò và ý nghĩa của các môn học nền tảng, nắm
vững công nghệ hiện đại và nắm bắt được các kỹ năng cho phép học viên nhanh chóng sử dụng
thành thạo các chương trình, kỹ thuật mới. Trong đó, các môn học nền tảng như cơ sở thư viện
học và thông tin học, khoa học máy tính, tâm lý học, kinh tế học, giữ vai trò vô cùng quan
trọng cho đào tạo nhân lực thông tin - thư viện. Cụ thể, tâm lý học cho phép xây dựng mối quan
hệ phù hợp giữa cán bộ thông tin - thư viện và người dùng tin, cũng như đáp ứng các yêu cầu cụ
thể về tâm lý trong quá trình tương tác giữa con người với máy tính, với thư viện điện tử. Môn
học này đặc biệt quan trọng đối với những cán bộ có nhiệm vụ khai thác các sản phẩm chương
trình phần mềm chuyên dụng cho thư viện. Môn kinh tế học cho phép học viên hiểu rõ các yếu tố
tác động tới quá trình hình thành giá trong khai thác các nguồn thông tin trực tuyến, cũng như xác
định được các khía cạnh quyết định sự tồn tại của thư viện trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc
giảng dạy các môn học về công nghệ thông tin hiện đại giúp học viên nắm bắt được các kỹ năng
cho phép phân tích và hiểu biết về các công nghệ mới trong xã hội. Các môn học này là một trong
các nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo thông tin - thư viện không chỉ ở Việt Nam mà
còn ở các nước khác trên thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh đổi thay nhanh chóng của xã hội hiện
đại. Trong thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện trên thế giới hiện nay thường gặp các vị trí cán
bộ thông tin - thư viện chuyên nghiệp sau: “Chuyên viên thư viện”, “Cán bộ quản trị mạng”, “Cán
bộ thư viện cho hệ thống máy tính”, “Cán bộ phối hợp tìm kiếm thông tin”, “Chuyên gia Web”,
“Chuyên gia công nghệ đa phương tiện”, “Chuyên gia mã hóa” [3].
Như vậy, việc gia tăng các yếu tố “công nghệ” trong nội dung đào tạo nhân lực thông tin -
thư viện ở mọi trình độ khác nhau là một đòi hỏi khách quan và tất yếu. Nhưng, không thể cho
rằng, càng tăng khối lượng các môn học này trong chương trình đào tạo thông tin - thư viện càng
tốt. Cần phải suy nghĩ thấu đáo xem công nghệ có thể giúp cán bộ thông tin - thư viện như thế nào
trong thực thi nghiệp vụ của họ. Theo ý kiến của nhà sư phạm, chuyên gia thư viện người Mỹ -
White Herbert, “bản thân công nghệ không thay đổi mục đích công việc của cán bộ thư viện mà
chỉ tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành nhiệm vụ đó tốt hơn” [5]. Do v