Mở đầu: Chẩn đoán và xử trí rối loạn nội tiết của bướu thượng thận ở miền nam Việt Nam hiện nay chưa
thống nhất. Cần có nghiên cứu đánh giá rối loạn nội tiết trước phẫu thuật của bướu thượng thận để rút kinh
nghiệm cải thiện việc xử trí những trường hợp này.
Mục tiêu: Đánh giá các rối loạn nội tiết của các bệnh nhân có bướu thượng thận trước phẫu thuật.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng: Bệnh nhân được chẩn đoán có bướu thượng thận nhập viện đã phẫu thuật cắt bướu từ 4/2002
tới 3/2006.
Kết quả: Có 102 bệnh nhân (BN), 60 người là nữ, tỉ số nữ/nam là 1,4/1. Tuổi trung vị là 43 (15 tới 74
tuổi). Ghi nhận 54/102 BN được phát hiện bướu thượng thận tình cờ. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là
tăng huyết áp 43,1% và đau hông lưng 44,1%. Kích thước bướu thượng thận trung bình là 56,5 ± 32,1 mm, nhỏ
nhất là bướu tiết aldosterone 20,3 ± 11 mm. Bướu thượng thận tiết hormon có ở 56/102 bệnh nhân (54,9%),
trong đó 41 là pheochromocytoma, 10 là hội chứng Conn và 5 là hội chứng Cushing. Ở nhóm bệnh nhân
pheochromocytoma 45,5% trường hợp có catecholamin niệu 24 giờ tăng >=2 lần so với giới hạn trên của bình
thường, 44,5% có catecholamin niệu 24 giờ tăng < 2 lần hoặc không tăng. Tất cả bệnh nhân hội chứng Conn đều
THA và hạ kali máu. Có 16/41 BN pheochromocytoma có huyết áp bình thường trước mổ, trong số này có 10
bệnh nhân bị THA cơn trong khi mổ cần dùng thuốc hạ áp tĩnh mạch.
Kết luận: Trong nghiên cứu này tỉ lệ bướu thượng thận tiết hormon khá thường gặp (54,9%). Số bệnh
nhân được chẩn đoán bướu thượng thận tình cờ chiếm 52,9%. Chỉ đo catecholamin nước tiểu 24 giờ sẽ không
phát hiện được một tỉ lệ đáng kể pheochromocytoma.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét các rối loạn nội tiết của bệnh nhân có bướu tuyến thượng thận trước phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 240
NHẬN XÉT CÁC RỐI LOẠN NỘI TIẾT CỦA BỆNH NHÂN
CÓ BƯỚU TUYẾN THƯỢNG THẬN TRƯỚC PHẪU THUẬT
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thy Khuê**
TÓM TẮT
Mở đầu: Chẩn đoán và xử trí rối loạn nội tiết của bướu thượng thận ở miền nam Việt Nam hiện nay chưa
thống nhất. Cần có nghiên cứu đánh giá rối loạn nội tiết trước phẫu thuật của bướu thượng thận để rút kinh
nghiệm cải thiện việc xử trí những trường hợp này.
Mục tiêu: Đánh giá các rối loạn nội tiết của các bệnh nhân có bướu thượng thận trước phẫu thuật.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng: Bệnh nhân được chẩn đoán có bướu thượng thận nhập viện đã phẫu thuật cắt bướu từ 4/2002
tới 3/2006.
Kết quả: Có 102 bệnh nhân (BN), 60 người là nữ, tỉ số nữ/nam là 1,4/1. Tuổi trung vị là 43 (15 tới 74
tuổi). Ghi nhận 54/102 BN được phát hiện bướu thượng thận tình cờ. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là
tăng huyết áp 43,1% và đau hông lưng 44,1%. Kích thước bướu thượng thận trung bình là 56,5 ± 32,1 mm, nhỏ
nhất là bướu tiết aldosterone 20,3 ± 11 mm. Bướu thượng thận tiết hormon có ở 56/102 bệnh nhân (54,9%),
trong đó 41 là pheochromocytoma, 10 là hội chứng Conn và 5 là hội chứng Cushing. Ở nhóm bệnh nhân
pheochromocytoma 45,5% trường hợp có catecholamin niệu 24 giờ tăng >=2 lần so với giới hạn trên của bình
thường, 44,5% có catecholamin niệu 24 giờ tăng < 2 lần hoặc không tăng. Tất cả bệnh nhân hội chứng Conn đều
THA và hạ kali máu. Có 16/41 BN pheochromocytoma có huyết áp bình thường trước mổ, trong số này có 10
bệnh nhân bị THA cơn trong khi mổ cần dùng thuốc hạ áp tĩnh mạch.
Kết luận: Trong nghiên cứu này tỉ lệ bướu thượng thận tiết hormon khá thường gặp (54,9%). Số bệnh
nhân được chẩn đoán bướu thượng thận tình cờ chiếm 52,9%. Chỉ đo catecholamin nước tiểu 24 giờ sẽ không
phát hiện được một tỉ lệ đáng kể pheochromocytoma.
Từ khóa: bướu thượng thận, phẫu thuật cắt bướu thượng thận.
ABSTRACT
ENDOCRINE DISORDERS IN PATIENTS WITH ADRENAL TUMORS BEFORE SURGERY
Tran Quang Nam, Nguyen Thy Khue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 240 - 247
Background: In south Viet Nam management of endocrine disorders of adrenal tumors is still controversial.
There is a need to study hormonal dysfunctions in these patients, in order to improve management of adrenal
tumors.
Objectives: to assess hormonal dysfunctions in patients with adrenal tumors before surgery.
Method: retrospective case series report.
Participants: Patients with adrenal tumors admitted to hospital and had adrenalectomy from April 2002 to
March 2006.
Results: 102 patients (60 female), female to male ratio was 1.4/1. Median age was 43 (15-74). 54/102
patients had adrenal incidentaloma. Common manifestations were hypertension (43.1%) and flank pain (44.1%).
* Bộ môn nội tiết, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, ** Bộ môn nội tiết, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Trần Quang Nam ĐT: 0908386382 Email: tranqnam@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 241
Mean size of tumor was 56.5 ± 32.1 mm. Aldosterone-secreting adrenal tumor size was smallest (20.3 ± 11 mm).
56/102 patients (54.9%) had hormone-secreting adrenal tumors (41 pheochromocytoma, 10 Conn’s syndrome
and 5 Cushing’s syndrome. Among subgroup of patients with pheochromocytoma, only 45.5% of cases had 24-
urine catecholamine equal or greater than 2 upper limit of reference range.
Conclusion: In this study hormone-secreting adrenal tumors were frequent (54.9%). Proportion of adrenal
incidentaloma was 52.9%. Many cases with pheochromocytoma will be missed if only 24-urine catecholamine
measurement is used for screening of pheochromocytoma.
Keywords: adrenal tumor, adrenal surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tần xuất hiện mắc của bướu thượng thận
tình cờ khoảng 3% ở tuổi trung niên, tăng tới
10% ở người già(6). Bướu thượng thận tiết
hormon có thể là: tăng tiết cortisol, cường
aldosteron nguyên phát, tăng tiết androgen,
bướu tủy thượng thận (pheochromocytoma).
Những loại bướu này cần được chẩn đoán tăng
tiết hormon gì trước khi có dự tính phẫu thuật
cắt bỏ bướu(10).
Ở Việt nam, khoảng 10 năm trở lại đây việc
phát hiện và xử trí các khối bướu tuyến thượng
thận đã được cải thiện đáng kể nhờ đã đo được
một số hormon thượng thận. Trong thời đại của
sự phát triển kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như
chụp cắt lớp điện toán (CLĐT) và chụp cộng
hưởng từ hạt nhân (CHTHN) có độ phân giải
ngày càng tốt nên tạo điều kiện dễ dàng phát
hiện các khối bướu thượng thận ngay cả khi còn
nhỏ. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị rối
loạn nội tiết của bướu thượng thận chưa có đồng
thuận chung. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm mục đích đánh giá các rối loạn nội tiết
của các bệnh nhân có bướu thượng thận trước
phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu hồi cứu hàng loạt ca
thực hiện tại bệnh viện Bình Dân và Bệnh viện
Chợ Rẫy.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
1) Những bệnh nhân được chẩn đoán có
bướu thượng thận nhập viện đã phẫu thuật cắt
bướu từ 4/2002 tới 3/2006.
2) Đã có kết quả giải phẫu bệnh là khối
bướu thượng thận hoặc tổn thương tại tuyến
thượng thận (ví dụ: ung thư di căn tới tuyến
thượng thận).
Tiêu chuẩn loại trừ
1) Trước mổ chẩn đoán bướu thượng thận
nhưng không được phẫu thuật vì các lý do như:
bệnh nhân từ chối phẫu thuật, bệnh lý đi kèm
nặng, quá chỉ định.
2) Giải phẫu bệnh của khối bướu là tổn
thương khác không thuộc tuyến thượng thận.
3) Không có kết quả giải phẫu bệnh.
Các bệnh nhân được thu thập các số liệu sau:
tuổi, giới tính, hoàn cảnh phát hiện, các triệu
chứng, tiền căn bệnh lý; Các dấu hiệu lâm sàng:
tăng huyết áp (THA), tăng huyết áp cơn, hội
chứng Cushing, yếu liệt cơ; xét nghiệm sinh hóa:
ion đồ máu, đo nồng độ hormon tuyến thượng
thận trong máu và nước tiểu, nghiệm pháp động
chẩn đoán tăng tiết hormon (nếu có làm); kết
quả hình ảnh học (chụp CLĐT, chụp CHTHN);
chẩn đoán trước mổ; diễn tiến phẫu thuật;
phương pháp phẫu thuật; giải phẫu bệnh.
Chúng tôi tìm được 138 hồ sơ bệnh án của
các bệnh nhân có chẩn đoán là bướu thượng
thận nhập viện. Trong số đó có 102 bệnh án đủ
tiêu chuẩn chọn lựa, còn 36 bệnh án bị loại do
không đáp ứng được tiêu chuẩn chọn vào
nghiên cứu.
Các giá trị tham chiếu của xét nghiệm: Kali
máu 3,5 – 5,0 mmol/L; Cortisol máu sáng: 6,2-
19,4 mcg/dL; Catecholamin máu: <100pg/ml;
Catecholamin nước tiểu 24 giờ: <275mcg;
Norepinephrin nước tiểu 24 giờ: 12,1 - 85,5 mcg;
Epinephrin nước tiểu 24 giờ: <22,4 mcg;
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 242
Dopamin nước tiểu 24 giờ: 25-250 mcg; Cortisol
nước tiểu 24 giờ: 21-143 mcg; 17-
hydroxycorticosteroid nước tiểu 24giờ: 5-23 mg;
17-ketosteroid nước tiểu 24giờ: 10-25 mg; ACTH
huyết tương: Sáng =15-100, chiều < 50 pg/ml;
Aldosteron huyết tương: 10-210 pg/mL; Renin
huyết tương: 0-25 ng/mL. Xét nghiệm ACTH,
Aldosteron huyết tương đo bằng phương pháp
ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay).
Renin và Cortisol huyết tương đo bằng phương
pháp miễn dịch men. Catecholamin
(Epinephrin, norepinephrin và dopamin) nước
tiểu được đo bằng phương pháp HPLC (High-
performance liquid chromatography).
Xác định chẩn đoán trong nghiên cứu
Chẩn đoán là Hội chứng Cushing do bướu
thượng thận tiết cortisol khi có(3): biểu hiện lâm
sàng triệu chứng Hội chứng Cushing, kèm theo:
1) Cortisol máu tăng cao, cortisol nước tiểu 24
giờ tăng cao trên giới hạn trên của mức bình
thường, ACTH không tăng. Hoặc 2) Nghiệm
pháp ức chế Dexamethasone 1 mg qua đêm
hoặc nghiệm pháp Dexamethasone liều thấp
(uống 0,5 mg/6giờ trong 2 ngày) không ức chế
được cortisol 8giờ sáng sau uống
dexamethasone > 5mcg/dL (nếu có làm). 3) Phải
có chụp CLĐT thấy khối bướu thượng thận và
giải phẫu bệnh phải là bướu vỏ thượng thận.
Chẩn đoán bướu thượng thận tiết aldosteron
(hội chứng Conn)(3,16): khi có tăng huyết áp kèm
hạ kali máu có thêm các yếu tố: 1) aldosteron
máu tăng cao, renin thấp (nếu có đo). 2) Chụp
CLĐT thấy khối bướu thượng thận 1 bên, và giải
phẫu bệnh là bướu vỏ thượng thận. 3) Sau cắt
bướu kali máu bình thường mà không uống bù
kali, huyết áp bình thường hoặc có cải thiện.
Chẩn đoán pheochromocytoma: khi có kết
quả giải phẫu bệnh (GPB) là pheochromocytoma
tủy thượng thận(8).
Chẩn đoán pheochromocytoma ác tính: dựa
vào giải phẫu bệnh và bằng chứng có di căn hay
xâm lấn.
Chẩn đoán bướu thượng thận phát hiện tình
cờ khi: bướu thượng thận được phát hiện khi
làm xét nghiệm hình ảnh (siêu âm bụng, Chụp
CLĐT,) vì một lý do không phải liên quan với
bệnh lý thượng thận. Định nghĩa này không
dùng khi các bệnh nhân được làm chẩn đoán
hình ảnh để đánh giá ung thư mà phát hiện
bướu thượng thận(2,4).
Chẩn đoán ung thư vỏ tuyến thượng thận
dựa vào giải phẫu bệnh.
Chẩn đoán bướu thượng thận không tiết
hormon: Chụp CLĐT có bướu thượng thận và
giải phẫu bệnh là tổn thương của thượng thận.
Không có bằng chứng lâm sàng và xét nghiệm
sinh hóa của tăng tiết aldosteron, cortisol hay
pheochromocytoma.
Xác định kích thước bướu thượng thận dựa
vào kết quả chụp CLĐT hoặc chụp CHTHN là
đường kính lớn nhất của bướu tính bằng mm.
Xử lý thống kê
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê
STATA 8.1.
KẾT QUẢ
Trong số 102 bệnh nhân được chọn vào
nghiên cứu, có 60 người là nữ, tỉ số nữ/nam là
1,4/1. Tuổi trung vị là 43 (từ 15 tới 74 tuổi). Biểu
hiện lâm sàng thường gặp nhất là tăng huyết áp
và đau hông lưng. Những triệu chứng yếu liệt
chân kèm theo hạ kali máu và hội chứng
Cushing thì có tỉ lệ ít hơn (bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
lúc phát hiện bướu thượng thận
Đặc điểm lâm sàng N=102
Giới tính: Nữ, (n (%)) 60 (59)
Tuổi trung vị (năm) 43 (15-74)
THA (liên tục và cơn), (n (%)) 44 (43,1)
THA cơn, (n (%)) 18 (17,6)
Đau hông lưng, (n (%)) 45 (44,1)
Yếu chân, (n (%)) 6 (5,9)
Hội chứng Cushing, (n (%)) 7 (6,8)
Triệu chứng khác (đau bụng, nhức đầu,
chóng mặt, khám chậm tăng trưởng), (n (%))
17 (16,7)
Tiền căn THA, (n (%)) 38 (37,3)
Đái tháo đường típ 2, (n (%)) 5 (2,0)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 243
Vị trí và kích thước của từng loại khối
bướu
Tất cả 102 bệnh nhân (BN) đều có kết quả
chụp CLĐT thượng thận cho thấy kích thước
của bướu thượng thận thay đổi từ 10 mm tới 210
mm, trung bình là 56,5 ± 32,1 mm. Có 63 bệnh
nhân (61,8%) có bướu thượng thận bên phải, 38
bệnh nhân (37,2%) có bướu thượng thận bên
trái, chỉ gặp 1 trường hợp (1%) bướu thượng
thận 2 bên (bảng 2)
Bảng 2: Kích thước của bướu thượng thận
Các loại bướu thượng thận Số lượng Kích thước
(mm)
Pheochromocytoma 41 57,2 ± 30
Carcinoma vỏ thượng thận 10 87,4 ± 49
Bướu thượng thận tiết
aldosteron
10 20,3 ± 11
Bướu thượng thận tiết
glucocorticoid
5 67,2 ± 37
Bướu hạch thần kinh 12 59,4 ± 19
Adenoma không tiết hormon 12 50,4 ± 28
Nang thượng thận 5 77,8 ± 26
Bướu mỡ ( 3 BN: 40mm; 45mm và 70 mm); Bướu mỡ tủy
(3BN: 40 mm; 60mm và 60mm; Bướu bao sợi dây thần kinh
(Schwannoma) (2 BN: 50mm và 75mm); Ung thư di căn tới
thượng thận (2 BN: 50mm và 85mm)
Các loại bướu theo kết quả giải phẫu bệnh
Trong 102 bệnh nhân, Pheochromocytoma
chiếm tỉ lệ nhiều nhất (41BN, 40,2%), kế đến là
bướu tuyến vỏ thượng thận (24BN, 23,5%),
Bướu hạch thần kinh (ganglioneuroma) (12 BN,
11,8%), carcinôm vỏ thượng thận (10BN, 9,8%),
Nang thượng thận (5 BN, 4,9%), Bướu mỡ (3 BN,
2,9%), Bướu mỡ tủy bào (3 BN2,9%), Bướu bao
sợi dây thần kinh (2 BN, 2%), Ung thư di căn tới
tuyến thượng thận (2 BN, 2%).
Phân loại theo bướu tuyến thượng thận
chế tiết hormon hay không
Bướu chế tiết hormon thượng thận có 56/102
bệnh nhân (54,9%), trong đó 41 là
pheochromocytoma, 10 là hội chứng Conn và 5
là hội chứng Cushing.
Đặc điểm của phân nhóm các bệnh nhân
pheochromocytoma
Phân nhóm 41 bệnh nhân có chẩn đoán là
pheochromocytoma độ tuổi trung vị là 45 (21 –
70) tuổi. Nữ gặp nhiều hơn nam với tỉ số là 1,3:1.
Biểu hiện lâm sàng của các bệnh nhân
pheochromocytoma
Biểu hiện thường là tăng huyết áp, cơn hồi
hộp kèm tăng huyết áp, đau hông lưng. Hạ kali
máu (Kali máu từ 1,9 tới 3,4 mmol/L) ghi nhận
trên ion đồ ở 11 trường hợp. Có 18 bệnh nhân
phát hiện bướu thượng thận tình cờ được chẩn
đoán giải phẫu bệnh là pheochromocytoma.
(Bảng 4)
Bảng 4: Đặc điểm của các bệnh nhân
pheochromocytoma
Biểu hiện lâm sàng n=41 Tỉ lệ (%)
THA (liên tục và cơn) 25 61
THA cơn 12 29,3
Không THA 16 39
Đau hông lưng 19 46,3
Đái tháo đường 05 12,2
Hạ Kali máu 11 26,8
Bướu thượng thận tình cờ 18 43,9
Kích thước trung bình (mm) 57,2 ± 30
Chẩn đoán pheochromocytoma
Số xét nghiệm hormon chẩn đoán
pheochromocytoma được thực hiện bao gồm:
catecholamin máu (5 bệnh nhân), Catecholamin
nước tiểu 24 giờ (33 bệnh nhân), VMA (vanillyl
mandelic acid) nước tiểu 24 giờ (4 bệnh nhân),
17-hydroxycorticosteroids (24 bệnh nhân), 17-
ketosteroids (24 bệnh nhân). Trong số 33 bệnh
nhân được đo catecholamin nước tiểu 24 giờ, có
15 bệnh nhân có kết quả catecholamin nước tiểu
tăng ≥ 2 lần so với giới hạn trên của giá trị bình
thường theo phòng xét nghiệm, 18 bệnh nhân có
catecholamin nước tiểu tăng < 2 lần so với giới
hạn trên của giá trị bình thường.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 244
So sánh nhóm bệnh nhân
pheochromocytoma trước mổ THA và
nhóm bệnh nhân pheochromocytoma
không THA
Nhóm bệnh nhân pheochromocytoma
không ghi nhận THA trước mổ thường bị đau
hông lưng nhiều và kích thước bướu cũng lớn
hơn. Cả 2 nhóm đều có tăng nồng độ
catecholamin nước tiểu. Có 10/16 (62.5%) bệnh
nhân không THA trước mổ nhưng trong lúc mổ
có cơn THA đột ngột cần dùng thuốc hạ áp tĩnh
mạch (Bảng 5).
Bảng 5: So sánh nhóm bệnh nhân pheochromocytoma trước mổ THA và nhóm không THA
Đặc điểm Pheochromocytoma không THA
(n=16)
Pheochromocytoma có THA
(n=25)
P
Tuổi trung vị 45 45
Giới (nam/nữ) 8/8 11/14
Đau hông lưng (n (%)) 10 (62,5) 9 (36,0) 0,08
Kích thước bướu (mm) 76,3 +/- 36,2 45 +/- 17,3 0,045
THA >180/100 mmHg
cần thuốc hạ áp tĩnh mạch (n (%))
10 (62,5) 17 (68,0) 0,7
Catecholamin nước tiểu
≥ 2 lần giới hạn trên bình thường (n (%))
8 (72,7) 7 (31,8) 0,15
Bướu thượng thận tiết aldosteron
Có 10 bệnh nhân đều biểu hiện bằng tăng
huyết áp và hạ kali máu. Có 4 bệnh nhân bị yếu
cơ. Có 7 bệnh nhân được đo aldosteron huyết
tương và 2 bệnh nhân được đo renin huyết
tương. Giải phẫu bệnh đều là adenoma (bảng 6)
Bảng 6: Đặc điểm của 10 bệnh nhân bướu vỏ thượng
thận tiết aldosteron
Đặc điểm Kết quả
Số bệnh nhân 10
Tuổi trung vị 34 (20-54)
Nữ/nam 8/2
THA kèm hạ kali 10
Yếu cơ 4
Kali máu trung bình (mmol/L) 2,23 ± 0.5
Aldoteron huyết tương (pg/mL) 219,6 ± 193
Kích thước trung bình bướu (mm) 20,3 ± 11
HA bình thường sau cắt bướu (n) 8
Bướu thượng thận chế tiết glucocorticoid
Có 5 trường hợp có bướu thượng thận chế
tiết glucocorticoid (Hội chứng Cushing không
phụ thuộc ACTH). Tất cả đều có hội chứng
Cushing lâm sàng điển hình. Chẩn đoán chỉ
dựa vào biểu hiện lâm sàng, cortisol huyết
tương vào buổi sáng tăng cao trên giới hạn
tham chiếu và ACTH huyết tương bình
thường hay thấp. Có 3 trong số 5 bệnh nhân là
carcinoma vỏ thượng thận.
Các trường hợp bướu thượng thận tình cờ
Có 54/102 (52,9%) bệnh nhân (32 nữ) được
chẩn đoán là bướu thượng thận tình cờ với
tuổi trung vị là 45 (15-74) tuổi. Bướu thượng
thận phải có 34 trường hợp. Kích thước bướu
trung bình là 61.57 ± 23.2 (20 – 132) mm. Tất cả
đều được phát hiện tình cờ qua siêu âm bụng.
Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy
pheochromocytoma [18/54 (33,3%)], bướu hạch
thần kinh [10/54 (18,5%)], U tuyến vỏ thượng
thận [10/54 (18,5%)], Nang thượng thận [5/54
(9,3%)], Carcinôm vỏ thượng thận [3/54
(5,6%)], Bướu mỡ [3/54 (5,6%)], Bướu mỡ tủy
[3/54 (5,6%)], Bướu bao sợi dây thần kinh [2/54
(3,7%)].
BÀN LUẬN
102 bệnh nhân bướu thượng thận trong
nghiên cứu của chúng tôi có tuổi dao động từ 15
tới 74 tuổi, đa số bệnh nhân là nữ giới, với nữ
chiếm 59% và nam chiếm 41%, cũng phù hợp
với các nghiên cứu trước đây. Theo nghiên cứu
của Mantero F và cộng sự trên 1004 bệnh nhân
có bướu thượng thận thì 58% là nữ và 42% là
nam giới(11).
Nghiên cứu của chúng tôi thu thập tất cả các
bệnh nhân có bướu thượng thận được phẫu
thuật ở 2 trung tâm bệnh viện Bình Dân và Bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 245
viện Chợ rẫy, lúc phát hiện bướu thường bệnh
nhân có tăng huyết áp, đau hông lưng. Những
trường hợp bướu thượng thận phát hiện tình cờ
(qua siêu âm bụng hoặc Chụp CLĐT bụng) khá
nhiều 54/102 bệnh nhân (53%). Tuy nhiên,
những trường hợp lâm sàng có nghi ngờ bệnh lý
thượng thận tăng tiết hormon không gặp nhiều
(bảng 1), có lẽ do hồi cứu nên hồ sơ không ghi
nhận. Ngoài ra, tỉ lệ phát hiện tình cờ các khối
bướu thượng thận cũng thường gặp hơn nên lúc
phát hiện bệnh nhân cũng ít có biểu hiện liên hệ
với rối loạn nội tiết do bướu thượng thận.
Vị trí thường gặp của bướu thượng thận bên
phải chiếm 61,8% trong nghiên cứu của chúng
tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây.
Theo Mantero F và cộng sự tổng kết 1004 bệnh
nhân bướu thượng thận, bên phải chiếm 59%,
bên trái chiếm 31% và 2 bên là 10%(11).
Những bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi có bướu thượng thận kích thước
trung bình khá lớn 56,5 ± 32,1 (10-210) mm.
Kết quả này là do đa số khối bướu là
pheochromocytoma, carcinoma vỏ thượng
thận và ganglioneuroma vốn là những khối
bướu thường có kích thước lớn khi phát
hiện.(12) Bướu thượng thận tiết aldosteron có
kích thước nhỏ hơn so với các loại bướu
thượng thận khác. (bảng 2).
Phân nhóm pheochromocytoma
Trong nghiên cứu của Baguet JP và cộng
sự trên 41 trường hợp pheochromocytoma
được phẫu thuật thì chỉ 24% các trường hợp có
nhức đầu, hồi hộp và vã mồ hôi. Tăng huyết
áp chiếm 51% các trường hợp trước phẫu
thuật(1) Gần tương tự như kết quả của Baguet
JP, 41 bệnh nhân pheochromocytoma của
chúng tôi trước mổ có 61% tăng huyết áp.
Trong số đó thì 29,3% (12/41) có ghi nhận tăng
huyết áp cơn (bảng 4). Tuy nhiên các triệu
chứng đi kèm như vã mồ hôi, nhức đầu và hồi
hộp trống ngực thì không thấy ghi nhận trong
bệnh án. Thực tế các hồ sơ bệnh án ngoại khoa
ít có ghi nhận biểu hiện rối loạn nội tiết, đây
cũng là giới hạn thường gặp khi làm nghiên
cứu hồi cứu.
Đáng lưu ý là trong thực tế có các trường
hợp pheochromocytoma mà huyết áp không
tăng, không có triệu chứng gì hoặc chỉ có những
biểu hiện không gợi ý liên quan tới tăng tiết
catecholamin. Những bệnh nhân này thường
được lý giải là do bướu chế tiết rất ít
catecholamin hoặc chế tiết không liên tục.
Baguet J P cũng ghi nhận 49% bệnh nhân
pheochromocytoma không tăng huyết áp có
nồng độ normetadrenalin thấp hơn có ý nghĩa
so với những bệnh nhân pheochromocytoma có
tăng huyết áp(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi
tỉ lệ bệnh nhân pheochromocytoma không ghi
nhận tăng huyết áp là 39% (bảng 4).
So sánh nhóm pheochromocytoma có THA
và nhóm không THA trước phẫu thuật
(bảng 5)
Số bệnh nhân pheochromocytoma không ghi
nhận THA trước mổ có tỉ lệ đau hông lưng
nhiều hơn, có thể liên hệ với kích thước bướu
thượng thận ở nhóm này to hơn. Cả 2 nhóm
bệnh nhân này đều có các bệnh nhân bị THA
trong lúc mổ cần phải dùng thuốc hạ áp đường
tĩnh mạch và nồng độ catecholamin nước tiểu 24
giờ gia tăng. Trên thực tế huyết áp chỉ đo một
vài thời điểm trong ngày nên có thể không phát
hi