Đặt vấn đề: Bệnh không lây đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành y tế tại các nước trên thế giới chính
bởi những hệ lụy về sức khỏe và những gánh nặng kinh tế. Việt Nam đã có những nổ lực phòng chống các bệnh
không lây, tuy nhiên vẫn chưa có thể tìm hiểu được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không
lây. Nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhóm đối tượng này để có thể nâng cao chất
lượng chăm sóc và chất lượng cuộc sống.
Mục tiêu: Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không lây (tim mạch, đái tháo
đường, COPD) tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây, năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang với 251 đối tượng mắc các bệnh không lây (tim
mạch, đái tháo đường, COPD) đến khám tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây.
Kết quả: Bệnh tim mạch luôn đứng đầu với tỷ lệ mắc cao. Vẫn còn một số ít bệnh nhân còn dửng dưng chủ
quan với tình trạng bệnh của mình, biết mà không điều trị. Những thông tin về cách phòng ngừa, dấu hiệu bệnh
và cách chữa trị là những thông tin y tế mà người cao tuổi, đặc biệt bệnh nhân mắc bệnh không lây mong muốn
nhận được. Đa số bệnh nhân đều có khả năng chi trả bao gồm chi phí y tế và chi phí phi y tế. Nhu cầu về các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe như tư vấn dinh dưỡng, chế độ ăn uống chiếm tỷ lệ cao.
Kết luận: Cần phải tập trung công tác truyền thông và cung cấp những thông tin cần thiết theo nhu cầu
của bệnh nhân mắc bệnh không lây. Tăng cường cung cấp các dịch vụ tư vấn dinh dưỡng cho đối tượng này tại
các phòng khám bệnh không lây.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân bệnh không lây tại Trung tâm Phòng chống Chấn thương và Bệnh không lây, năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 79
NHU CẦU CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA BỆNH NHÂN BỆNH KHÔNG LÂY
TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG CHẤN THƯƠNG VÀ BỆNH KHÔNG LÂY,
NĂM 2013
Bùi Thị Hy Hân*, Dương Thị Minh Tâm*, Diệp Thị Thùy Vân*, Lê Đình Trọng Nhân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh không lây đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành y tế tại các nước trên thế giới chính
bởi những hệ lụy về sức khỏe và những gánh nặng kinh tế. Việt Nam đã có những nổ lực phòng chống các bệnh
không lây, tuy nhiên vẫn chưa có thể tìm hiểu được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không
lây. Nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhóm đối tượng này để có thể nâng cao chất
lượng chăm sóc và chất lượng cuộc sống.
Mục tiêu: Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không lây (tim mạch, đái tháo
đường, COPD) tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây, năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang với 251 đối tượng mắc các bệnh không lây (tim
mạch, đái tháo đường, COPD) đến khám tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây.
Kết quả: Bệnh tim mạch luôn đứng đầu với tỷ lệ mắc cao. Vẫn còn một số ít bệnh nhân còn dửng dưng chủ
quan với tình trạng bệnh của mình, biết mà không điều trị. Những thông tin về cách phòng ngừa, dấu hiệu bệnh
và cách chữa trị là những thông tin y tế mà người cao tuổi, đặc biệt bệnh nhân mắc bệnh không lây mong muốn
nhận được. Đa số bệnh nhân đều có khả năng chi trả bao gồm chi phí y tế và chi phí phi y tế. Nhu cầu về các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe như tư vấn dinh dưỡng, chế độ ăn uống chiếm tỷ lệ cao.
Kết luận: Cần phải tập trung công tác truyền thông và cung cấp những thông tin cần thiết theo nhu cầu
của bệnh nhân mắc bệnh không lây. Tăng cường cung cấp các dịch vụ tư vấn dinh dưỡng cho đối tượng này tại
các phòng khám bệnh không lây.
Từ khóa: Nhu cầu chăm sóc sức khỏe, bệnh nhân bệnh không lây
SUMMARY
HEALTH CARE NEEDS OF PATIENTS WITH NON‐COMMUNICABLE DISEASES AT THE CENTER
FOR INJURY AND NON‐COMMUNCABLE DISEASES PREVENTION AND CONTROL, 2013
Bui Thi Hy Han, Duong Thi Minh Tam, Diep Thi Thuy Van, Le Dinh Trong Nhan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 79 – 86
Background: Noncommunicable diseases are the leading concern of the health sector in countries around the
world because of their consequences on health and economic burden. Although Vietnam has made efforts to
prevent non‐communicable diseases, health care needs of patients with non‐communicable diseases are not still
studied. The study aimed to determine the health care needs of this group to be able to improve the quality of
health care and quality of life.
Objectives: To determine the health care needs of patients with non‐communicable diseases (cardiovascular,
diabetes, COPD) at the center for injury and non‐communicable diseases prevention and control, 2013
Methods: A cross‐sectional study with 251 patients suffering from non‐communicable diseases (cardiovascular,
diabetes, COPD) examined at the center for injury and non‐communicable diseases prevention and control
* Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Bùi Thị Hy Hân ĐT: 0932424098 Email: buithihyhan@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 80
Result: Cardiovascular diseases always stand at the top with the highest incidence.There is still have a small
number of patients who ignore their health, are aware of their own disease, but do not seek to treatments. The
information about prevention, signs and treatment approach are most concerned by older people, especially non‐
communicable disease patients. Most patients are able to pay includes the cost of direct and indirect medical costs.
Health care services such as nutrition counseling, dietary needs contributed a high proportion.
Conclusion: Health care sector should focus on health education campaigns and provide the necessary
information based on the needs of patients suffering from non‐communicable diseases. Moreover, strengthening
provide nutrition counseling services for objects in the non‐communicable disease clinic should be obtained.
Keywords: Health care needs, non‐communicable disease patient.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh không lây đang là một vấn đề đặc biệt
đáng quan tâm do xu hướng bùng nổ trên toàn
thế giới và những hệ lụy nghiêm trọng về sức
khỏe và những gánh nặng kinh tế mà nó mang
lại. Trong năm 2008, tổng cộng có hơn 57 triệu ca
tử vong trên toàn thế giới, trong đó 36 triệu ca
(chiếm 63%) do các bệnh không lây gây ra như
bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư và
bệnh hô hấp mạn tính(13). Các ca tử vong do bệnh
không lây được dự đoán sẽ gia tăng 15,0% từ
năm 2010 đến 2020 (đến 44 triệu ca tử vong). Sự
gia tăng cao nhất sẽ ở Tây Thái Bình Dương (12,3
triệu ca tử vong) và Đông Nam Á (10,4 triệu ca
tử vong)(14). Việt Nam cũng không thoát khỏi xu
hướng đó, cụ thể, số ca mắc và tử vong của các
bệnh không lây và tai nạn, ngộ độc, chấn thương
ngày càng gia tăng, trong khi các bệnh lây có xu
hướng giảm: Từ năm 1976 đến 2010, tỷ lệ hiện
mắc bệnh không lây gia tăng từ 39,0% năm 1986
lên 71,5% năm 2010, trong khi tỷ lệ hiện mắc các
bệnh lây giảm từ 59,2% xuống còn 19,8%(2).
Trong khi đó, sự phát triển của xã hội kèm
theo nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân
ngày càng tăng cao. Họ mong muốn được chẩn
đoán, điều trị đúng bệnh và có thể khỏi bệnh
thật nhanh để có thể quay trở lại với công việc
và cuộc sống, nhưng nhu cầu phòng bệnh, phát
hiện sớm để chữa trị vẫn chưa được quan tâm ở
người dân, bệnh trở nên nặng hơn khi đó mới
đến khám tại các bệnh viện tuyến trên gây quá
tải trầm trọng. Trung tâm phòng chống chấn
thương và các bệnh không lây ‐ Viện Vệ sinh ‐ Y
tế công cộng được thành lập trong những năm
gần đây nhằm chăm sóc, nâng cao sức khỏe của
người dân để đáp ứng phần nào nhu cầu chăm
sóc sức khỏe của họ. Với tình hình đó, Viện Y tế
công cộng quyết định thực hiện nghiên cứu này
nhằm đánh giá nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở các
đối tượng đang mắc bệnh không lây để xác định
nhu cầu và mong muốn của người dân đến
khám tại trung tâm. Việc phát hiện sớm và điều
trị sớm giúp giảm được nhiều gánh nặng bệnh
tật cho người dân và gián tiếp hạn chế vấn đề
quá tải bệnh viện hiện nay ở nước ta.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định nhu cầu được cung cấp thông tin y
tế, khả năng chi trả và nhu cầu về các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh
không lây (tim mạch, đái tháo đường, COPD) tại
Trung tâm phòng chống chấn thương và các
bệnh không lây năm 2013.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu cắt
ngang trên 251 bệnh nhân mắc 1 trong 3 bệnh
không lây (tim mạch, đái tháo đường, COPD)
đến khám tại Trung tâm phòng chống chấn
thương và các bệnh không lây TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân sau
khi được bác sĩ chẩn đoán bệnh, nếu mắc 1 trong
3 loại bệnh trên, nhóm nghiên cứu giới thiệu
mục tiêu nghiên cứu và phỏng vấn trực tiếp
bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Nếu bệnh nhân không
đồng ý, bệnh nhân tiếp tục quy trình khám chữa
bệnh tại Trung tâm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 81
KẾT QUẢ
Gần 90% bệnh nhân đến khám tại Trung tâm
có độ tuổi từ 40 tuổi trở lên, trong đó độ tuổi từ
51‐60 tuổi chiếm đa số (35,9%), nhiều người lớn
hơn 61 tuổi cũng đến với Trung tâm (27,1%).
Nhìn chung, nữ bệnh nhân đến với Trung tâm
nhiều hơn nam bệnh nhân (58,2% so với 41,8%).
Riêng phần trình độ học vấn, 77,3% bệnh nhân
tham gia nghiên cứu này học từ cấp 3 trở xuống.
Về phần kinh tế gia đình, đa số bệnh nhân tự
nhận xét tình hình kinh tế của gia đình thuộc
mức độ trung bình (66,1%), với mức độ
nghèo/rất nghèo chiếm 21,5%. Tuy nhiên, khi hỏi
thu nhập bình quân đầu người, thu nhập trung
bình từ 2‐5 triệu chỉ chiếm 31,5%, và thu nhập <
2 triệu cũng chỉ chiếm 8,4%. Trong khi đó, thu
nhập với mức khá giả từ 5‐10 triệu và >10 triệu
chiếm gần 40%.
Đa số bệnh nhân mắc bệnh tim mạch, trong
đó chủ yếu là bệnh cao huyết áp, chiếm 82,5%,
ngoài ra, đái tháo đường cũng là một trong ba
loại bệnh mà bệnh nhân thường gặp nhất (chiếm
24,3%). COPD chiếm tỉ lệ rất thấp chỉ có 3,2%.
Bảng 1: Tình trạng bệnh không lây của bệnh nhân
đến khám tại Trung tâm
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
Tình trạng điều trị bệnh (n = 251)
Mới phát hiện 72 28,7
Đang điều trị 161 64,1
Đã phát hiện,nhưng không điều trị 18 7,2
Thời gian điều trị (n = 160)
<=1 năm 41 25,6
1 năm – 5năm 71 44,4
>5năm 48 30,0
Trong tổng số 251 bệnh nhân tham gia vào
nghiên cứu này, có đến 28,7% mới phát hiện
bệnh. Ngoài ra, trong số bệnh nhân đã biết về
bệnh tình trước đó, vẫn còn một số nhỏ bệnh
nhân không điều trị bệnh của mình (chiếm
7,2%). Đa số bệnh nhân đã điều trị bệnh từ 1‐5
năm (44,4%) và thường điều trị tại bệnh viện
huyện hoặc bệnh viện tỉnh nơi mình đang sinh
sống (chiếm 67,7%).
Bảng 2: Nhu cầu thông tin y tế
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
Thông tin y tế nhận được trong 1 tháng
qua (n=138)
Phòng ngừa 103 74,6
Cách chữa trị 88 63,8
Dấu hiệu bệnh 28 20,3
Nguyên nhân bệnh 13 9,4
Khác 1 0,7
Thông tin y tế cần được phổ biến (n=113)
Cách chữa trị 72 63,7
Phòng ngừa 63 55,8
Dấu hiệu bệnh 39 34,5
Nguyên nhân bệnh 24 21,2
Khác 1 0,9
Đa số mong muốn nhận được các thông tin y
tế về cách chữa trị (63,7%) và cách phòng ngừa
(55,8%) của các bệnh không lây. Còn đối với đối
tượng nhận được thông tin và tự tìm hiểu về các
bệnh không lây, thì số người này cũng thường
quan tâm nhiều nhất đến thông tin y tế cách
phòng ngừa (74,6%) và cách chữa trị (63,8%).
Bảng 3: Khả năng chi trả của bệnh nhân và đánh giá
chi phí của Trung tâm
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
Chi trả thêm cho đợt khám (n=251)
Hoàn toàn miễn phí 186 74,1
Chi trả thêm 65 25,9
Đủ khả năng chi trả (n = 251)
Không 26 10,4
Có 225 89,6
Đánh giá các loại chi phí tại Trung tâm (n = 65)
Cao 1 1,5
Trung bình 45 69,2
Thấp 17 26,2
Rất thấp 2 3,1
Bảo hiểm y tế (n = 251)
Không 48 19,1
Có 203 80,9
Hình thức thường chi trả mỗi lần khám chữa bệnh không
lây (n = 161)
Trực tiếp 100% 32 19,9
BHYT hoàn toàn 38 23,6
Trả thêm một phần 91 56,5
Trong tổng số 251 bệnh nhân tham gia
nghiên cứu, chỉ có ¼ người chi trả thêm cho
những dịch vụ không nằm trong chương trình
miễn phí, như siêu âm, chụp X‐quang, xét
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 82
nghiệm máu cho 1 số chỉ số khác. Khi được hỏi
về khả năng chi trả những khoản như tiền đi lại,
ăn uống và những khoản đóng thêm cho những
dịch vụ không miễn phí, thì 89,6% bệnh nhân
đều trả lời là đủ khả năng chi trả. Hầu hết đều
cho rằng các loại chi phí ở Trung tâm ở mức độ
vừa phải trung bình có thể chấp nhận và chi trả
được. Về bảo hiểm y tế, có đến 80,9% bệnh nhân
có bảo hiểm y tế tại nơi họ sinh sống, nơi làm
việc. Khi được hỏi về hình thức chi trả cho mỗi
lần khám chữa bệnh không lây (cụ thể các bệnh
khảo sát trong nghiên cứu như tim mạch, đái
tháo đường và COPD), chỉ có 23,6% được BHYT
trả 100%, còn lại 56,5% phải trả 1 phần.
Bảng 4: Nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ
Nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe (n = 251)
Không 27 10,8
Có 224 89,2
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe (n = 224)
Tư vấn dinh dưỡng, chế độ
ăn uống 123 54,9
Tư vấn sức khỏe 80 35,7
Khám sức khỏe định kì 56 25,0
Khám ngoài giờ 49 21,9
Tiêm chích thuốc 7 3,1
Khác 1 0,4
Đa số bệnh nhân đều có các nhu cầu về dịch
vụ chăm sóc sức khỏe (89,2%), trong đó tư vấn
dinh dưỡng và chế độ ăn uống chiếm cao nhất
(54,9%), bên cạnh là nhu cầu về tư vấn sức khỏe.
Có một tỷ lệ không nhỏ có nhu cầu khám sức
khỏe định kì và khám ngoài giờ (25,0% và 21,9%).
Bảng 5: Phân bố bệnh không lây theo đặc điểm dân số
(n=251)
Đặc điểm Tim
mạch
n (%)
Đái tháo
đường
n (%)
COPD
n (%)
Nhóm tuổi <=40 22 (10,6) 7 (11,4) 2 (18,2)
41-50 51 (24,7) 19 (31,2) 2 (18,2)
51-60 77 (37,2) 19 (31,2) 3 (27,3)
>61 57 (27,5) 16 (26,2) 4 (36,3)
Giới Nữ 119 (57,5) 39 (63,9) 6 (54,5)
Nam 88 (42,5) 22 (36,1) 5 (45,5)
Trình độ
học vấn
Biết đọc/viết 26 (12,5) 8 (13,1) 2 (18,2)
Cấp I 40 (19,3) 14 (23,0) 3 (27,3)
Cấp II 43 (20,8) 14 (23,0) 3 (27,3)
Đặc điểm Tim
mạch
n (%)
Đái tháo
đường
n (%)
COPD
n (%)
Cấp III 49 (23,7) 13 (21,3) 1 (9,1)
Cao đẳng/đại
học/sau đại học
49 (23,7) 12 (19,7) 2 (18,2)
Kinh tế gia
đình
Nghèo/Rất nghèo 42 (20,3) 12 (19,7) 4 (36,4)
Trung bình 142 (68,6) 38 (62,3) 6 (54,5)
Khá giả / giàu 23 (11,1) 11 (18,0) 1 (9,1)
Nghề
nghiệp
Nông dân 40 (19,3) 17 (27,9) 1 (9,1)
Công nhân 17 (8,2) 5 (8,2) 0 (0,0)
Công nhân viên
chức
54 (26,1) 16 (26,2) 1 (9,1)
Buôn bán 21 (10,1) 3 (4,9) 3 (27,3)
Nội trợ 32 (15,5) 12 (19,7) 3 (27,3)
Nghỉ hưu/thất
nghiệp
33 (15,9) 7 (11,5) 2 (18,2)
Khác 10 (4,8) 1 (1,6) 1 (9,1)
Về bệnh tim mạch, nhóm bệnh nhân từ 40
tuổi trở xuống có tỉ lệ mắc thấp nhất, trong khi
đó nhóm tuổi từ 51 – 60 tuổi lại chiếm tỉ lệ cao
nhất. Bên cạnh đó, nam giới lại ít mắc bệnh hơn
nữ giới (42,5% so với 57,5%). Trong khi, bệnh
nhân biết đọc hoặc biết viết, và bệnh nhân học
đến hết cấp I lại có tỉ lệ mắc bệnh tim mạch thấp
nhất, thì bệnh nhân có trình độ học vấn cao từ
cấp III và cao đẳng đại học lại mắc bệnh tim
mạch với tỉ lệ cao hơn.
Tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở nhóm bệnh
nhân từ 40 tuổi trở lên và nữ giới cao hơn nhóm
bệnh nhân từ 40 tuổi trở xuống và nam giới. Bệnh
nhân có trình độ học vấn ở mức độ biết đọc biết
viết có tỉ lệ mắc bệnh thấp nhất. Ngoài ra, kinh tế
gia đình cũng ảnh hưởng đến tình trạng mắc
bệnh đái tháo đường, cụ thể, bệnh nhân có thu
nhập gia đình ở mức độ trung bình mắc bệnh cao
nhất, trong khi đó, bệnh nhân có thu nhập khá giả
hoặc giàu có thì mắc bệnh ít nhất.
Về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD),
nhóm tuổi trên 60 tuổi là đối tượng dễ mắc bệnh
nhất (chiếm tỉ lệ cao nhất 36,3%). Nữ giới mắc
bệnh COPD nhiều hơn nam giới. Đối tượng có
trình độ học vấn thấp từ cấp II trở xuống thì có tỉ
lệ mắc bệnh COPD cao nhất. Bệnh nhân với mức
thu nhập trung bình chiếm tỷ lệ mắc bệnh
COPD cao nhất nhóm. Nhóm nghề nghiệp có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 83
thu nhập không ổn định như buôn bán và nội
trợ có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh
nhân khi đến khám tại Trung tâm có nhóm tuổi
từ 40 trở lên chiếm chủ yếu (88,4%) là điểm mốc
đánh dấu đa số các loại bệnh không lây bắt đầu
xuất hiện. Điều này cũng tương tự như các
nghiên cứu khác trên thế giới. Điển hình như
nghiên cứu của Andréa tại Brasil năm 2012, có
đến 88% dân số từ 40 tuổi trở lên bị ít nhất một
bệnh mạn tính (26% bị ít nhất ba bệnh)(1). Tương
tự theo báo cáo tại Mỹ năm 2012 về bệnh cao
huyết áp, có gần 97% đối tượng bị cao huyết áp
trong độ tuổi đó(10), và tại một tiểu bang của
Canada, Bristish Columbia năm 2004, tỷ lệ này ở
bệnh tiểu đường và cao huyết áp lần lượt là 91%
và 95%(3).
Cũng như các nước trên thế giới, mô hình
bệnh tật tại Việt Nam cũng đang ở giai đoạn
chuyển đổi. Tỷ lệ các bệnh truyền nhiễn đang
giảm trong khi các bệnh không lây đang có xu
hướng tăng cao. Kết quả của nghiên cứu này cho
biết rằng tim mạch luôn là bệnh có tỷ lệ mắc cao
nhất 82,5%. Điều này cũng tương tự với báo cáo
của Trung tâm phòng chống chấn thương và các
bệnh không lây cho đợt khám tầm soát các bệnh
không lây đợt 4/2013, trong đó, báo cáo cho biết
tim mạch là bệnh với tỷ lệ mắc cao nhất trong ba
loại bệnh nghiên cứu (tim mạch, đái tháo đường
và COPD)(11).
Vẫn còn 7,2% bệnh nhân (bảng 1) bỏ qua
tình trạng sức khỏe bản thân khi phát hiện bệnh.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, việc khước từ chữa
trị bệnh, ngoài các yếu tố từ người bệnh và môi
trường y tế, còn có những nguyên nhân như
đánh giá của người bệnh về hiệu quả điều trị
cũng như quyền lựa chọn, quyết định cách thức
điều trị mà người bệnh mong muốn. Việc Trung
tâm tư vấn các phương thức điều trị khác nhau,
trong đó có sự tham khảo và lắng nghe ý kiến từ
người bệnh cũng như cung cấp kiến thức cho
người bệnh về hiệu quả điều trị, thời gian điều
trị có thể góp phần làm thay đổi quyết định của
nhóm phát hiện bệnh nhưng chưa tiến hành
điều trị này. Thêm vào đó, báo cáo từ WHO
cũng cho thấy mối liên quan giữa kinh tế nghèo
và các bệnh mạn tính: muốn khỏe mạnh đòi hỏi
chi phí tiêu dùng cho thực phẩm, vệ sinh, và
chăm sóc y tế, nhưng để kiếm được tiền, người
đó phải khỏe mạnh(12).
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh
nhân bệnh không lây
Đối với thông tin y tế liên quan đến bệnh
không lây mà người dân quan tâm và tìm hiểu
trong 30 ngày qua, nhiều nhất bao gồm những
thông tin về phòng ngừa, cách chữa trị bệnh và
các dấu hiệu của bệnh. Hầu hết các thông tin này
được truyền tải qua tivi và đến với người dân.
Ngoài ra, các bệnh nhân đều mong muốn tiếp tục
nhận được các thông tin y tế liên quan đến bệnh
không lây, bệnh liên quan đến người trung niên
và người lớn tuổi. Điều này dường như cũng là
mong muốn chung của nhiều người dân tại các
vùng khác nhau. Ví dụ như, nghiên cứu nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của người dân Thành phố
Biên Hòa, Đồng Nai cũng quan tâm nhiều nhất
các thông tin y tế liên quan đến cách phòng ngừa
và dấu hiệu bệnh. Và họ mong muốn các thông
tin này nên được truyền tải qua các kênh như
truyền hình tivi, sách báo, loa phát thanh(8).
Tính chất miễn phí được xem là một trong
những lý do khiến bệnh nhân đến khám chữa
bệnh tại Trung tâm, cho dù đa số bệnh nhân đến
từ các tỉnh thành khác. Và như thế, tỷ lệ người
khám chữa bệnh hoàn toàn miễn phí chiếm đa
số (74,1%) (bảng 3). Số còn lại tham gia nghiên
cứu muốn đăng kí kiểm tra thêm và có tính phí,
như: siêu âm, chụp X‐quang, xét nghiệm một số
chỉ số khác. Đối với nhóm người có làm thêm
những dịch vụ khác, họ phải trả thêm số tiền
trung bình 177.300đ ± 95.600đ (bảng 3). Như vậy,
số tiền họ phải bỏ ra không quá cao so với thu
nhập hàng tháng của bệnh nhân khi đến khám
tại Trung tâm. Ngoài ra, trong nghiên cứu này,
có chỉ có 12,4 % (bảng 3) đối tượng tự cho là kinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 84
tế mình thuộc hộ khá giả/giàu. Tuy nhiên khi hỏi
về chi phí đến khám chữa bệnh thì có đến 69,2%
cho là trung bình, 26,2 % cho là thấp (bảng 3).
Chính vì thế, vẫn cần lưu ý bệnh nhân sẵn sàng
chấp nhận chi trả mức viện phí cao dù khả năng
tài chính không đủ nhưng vì được điều trị tốt,
chăm sóc điều dưỡng nhẹ nhàng và cẩn thận,
hơn hết là khách hàng cảm thấy mình được tôn
trọng, môi trường lại sạch sẽ đã tạo ấn tượng tốt
với mọi bệnh nhân.
Về khía cạnh bảo hiểm y tế, có đến 80,9 % số
trường hợp có tham gia các loại hình BHYT, bao
gồm BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện và cả loại
hình BHYT cho người nghèo, người có công đối
với những bệnh nhân tham gia nghiên cứu này
đã và đang mắc một trong ba bện