Những kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Mục tiêu: Ghép thận (KTx) tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua. Đ ối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trường hợp lâm sàng, cắt ngang, theo dõi trong 3 tháng đầu sau mổ của những trường hợp (TH) ghép từ 1992 đến 2010. Bệnh nhân là các trường hợp được KTx tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1992 đến 2010. Chọn người hiến và nhận theo tiêu chuẩn quốc gia. Kỹ thuật mổ chủ yếu là ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp hốc chậu phải có chống chỉ định (vết mổ cũ) và vài trường hợp của loạt đầu từ năm 1992 đến 1997. Thận ghép lấy từ mổ mở cắt thận (1992-2004) và cắt thận qua nội soi ổ bụng (2004-2005) hay nội soi sau phúc mạc (2005-2010). Ghép nối mạch máu (động mạch: nối tận-tận vào động mạch chậu trong, nếu có chống chỉ định sẽ nối tận-bên vào động mạch chậu ngoài, khi có viêm tắc động mạch; tĩnh mạch: nối tĩnh mạch tận-bên vào tĩnh mạch chậu ngoài). Từ năm 1998, sáng kiến phương pháp ghép chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu, trường hợp tĩnh mạch thận ghép lấy từ bên phải ngắn, cho phép chỉ ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp có chống chỉ định đo vết mổ cũ bên phải. Theo dõi sau ghép trong điều kiện cách ly vô khuẩn (tuyệt đối trong 7 ngày đầu và tương đối trong 7 ngày kế tiếp), xuất viện 15 ngày sau mổ nếu diễn tiến tốt. Thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập là cyclosporine A tĩnh mạch và Methyl-Prednisolone (1992-2006) và Baxiliximab (Simulect®) hoặc Diziazumab (Simulect®) (giai đoạn 2006 trở đi). Thuốc ức chế miễn dịch dùng sau KTx theo công thức quy ước: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), và Azathioprime (AZA) hoặc MMF. Kết quả phẫu thuật được đánh giá theo theo diễn tiến trong mổ và sau mổ trong 3 tháng. Kết quả: 202 lần ghép cho 201 trường hợp (TH) (có một người ghép 2 lần đều là người hiến thận trong gia đình). Giới tính gồm: 135/201 TH nam giới, (67,16%); 66/201 TH nữ giới, (32,84%). Tuổi trung bình: 33.98 ± 9,44, tuổi lớn nhất: 61, tuổi nhỏ nhất:15. Trừ 3/201 TH ghép từ người hiến thận không cùng huyết thống (1,49%). Thận ghép lấy từ bên phải: 52/202 thận (25,74%); thận ghép lấy từ bên trái: 150/202 thận (74,26%). Thận ghép từ mổ mở cắt thận là 88/202 (43,56%); từ phẫu thuật nội soi qua ổ bụng cắt thận 13/202 (6,44%); từ phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận là 101/202 (50,00%). Kết quả chung sau 3 tháng: thành công 201/202 lần ghép (99,5%) cho 201 TH, một TH bị thải ghép tối cấp phải cắt bỏ thận sau theo dõi 1 tuần lễ. Biến chứng phẫu thuật đẫn tới tử vong: 0 TH, Biến chứng sau mổ: chảy máu sau mổ lại 2/201 (0,99%); hẹp động mạch hoặc tĩnh mạch thận ghép: 0 TH; là dò nước tiểu 4/201 (1,99%), phải mổ lại; chậm chức năng thận phải chạy thận nhân tạo: 2/201TH (0,99%). Biến chứng liên quan đến đáp ứng miễn dịch:1/201 thải ghép tối cấp (cắt bỏ thận ghép), 49/201 lần ghép bị thải ghép cấp (24,38%) đáp ứng tốt điều trị, không có trường hợp nào phải cắt thận.

pdf11 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 387 NHỮNG KINH NGHIỆM PHẪU THUẬT SAU 200 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Trần Ngọc Sinh**, Chu Văn Nhuận*, Dương Quang Vũ*, Thái Minh Sâm*, Châu Quý Thuận*, Dư Thị Ngọc Thu*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Trọng Trí*, Nguyễn Thị Thái Hà* TÓM TẮT: Mục tiêu: Ghép thận (KTx) tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua. Đ ối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trường hợp lâm sàng, cắt ngang, theo dõi trong 3 tháng đầu sau mổ của những trường hợp (TH) ghép từ 1992 đến 2010. Bệnh nhân là các trường hợp được KTx tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1992 đến 2010. Chọn người hiến và nhận theo tiêu chuẩn quốc gia. Kỹ thuật mổ chủ yếu là ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp hốc chậu phải có chống chỉ định (vết mổ cũ) và vài trường hợp của loạt đầu từ năm 1992 đến 1997. Thận ghép lấy từ mổ mở cắt thận (1992-2004) và cắt thận qua nội soi ổ bụng (2004-2005) hay nội soi sau phúc mạc (2005-2010). Ghép nối mạch máu (động mạch: nối tận-tận vào động mạch chậu trong, nếu có chống chỉ định sẽ nối tận-bên vào động mạch chậu ngoài, khi có viêm tắc động mạch; tĩnh mạch: nối tĩnh mạch tận-bên vào tĩnh mạch chậu ngoài). Từ năm 1998, sáng kiến phương pháp ghép chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu, trường hợp tĩnh mạch thận ghép lấy từ bên phải ngắn, cho phép chỉ ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp có chống chỉ định đo vết mổ cũ bên phải. Theo dõi sau ghép trong điều kiện cách ly vô khuẩn (tuyệt đối trong 7 ngày đầu và tương đối trong 7 ngày kế tiếp), xuất viện 15 ngày sau mổ nếu diễn tiến tốt. Thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập là cyclosporine A tĩnh mạch và Methyl-Prednisolone (1992-2006) và Baxiliximab (Simulect®) hoặc Diziazumab (Simulect®) (giai đoạn 2006 trở đi). Thuốc ức chế miễn dịch dùng sau KTx theo công thức quy ước: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), và Azathioprime (AZA) hoặc MMF. Kết quả phẫu thuật được đánh giá theo theo diễn tiến trong mổ và sau mổ trong 3 tháng. Kết quả: 202 lần ghép cho 201 trường hợp (TH) (có một người ghép 2 lần đều là người hiến thận trong gia đình). Giới tính gồm: 135/201 TH nam giới, (67,16%); 66/201 TH nữ giới, (32,84%). Tuổi trung bình: 33.98 ± 9,44, tuổi lớn nhất: 61, tuổi nhỏ nhất:15. Trừ 3/201 TH ghép từ người hiến thận không cùng huyết thống (1,49%). Thận ghép lấy từ bên phải: 52/202 thận (25,74%); thận ghép lấy từ bên trái: 150/202 thận (74,26%). Thận ghép từ mổ mở cắt thận là 88/202 (43,56%); từ phẫu thuật nội soi qua ổ bụng cắt thận 13/202 (6,44%); từ phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận là 101/202 (50,00%). Kết quả chung sau 3 tháng: thành công 201/202 lần ghép (99,5%) cho 201 TH, một TH bị thải ghép tối cấp phải cắt bỏ thận sau theo dõi 1 tuần lễ. Biến chứng phẫu thuật đẫn tới tử vong: 0 TH, Biến chứng sau mổ: chảy máu sau mổ lại 2/201 (0,99%); hẹp động mạch hoặc tĩnh mạch thận ghép: 0 TH; là dò nước tiểu 4/201 (1,99%), phải mổ lại; chậm chức năng thận phải chạy thận nhân tạo: 2/201TH (0,99%). Biến chứng liên quan đến đáp ứng miễn dịch:1/201 thải ghép tối cấp (cắt bỏ thận ghép), 49/201 lần ghép bị thải ghép cấp (24,38%) đáp ứng tốt điều trị, không có trường hợp nào phải cắt thận. Kết luận: Trong thời gian đầu, về kỹ thuật mổ, theo chủ trương: thận phải được ghép vào hốc chậu trái, thận trái ghép vào hốc chậu phải, nhưng cũng chưa có TH nào ghép vào hốc chậu trái vì chưa lấy thận phải.Thời gian sau 1997-1998, do chỉ có 1 kíp mổ, do phát kiến kỹ thuật chuyển vị mạch máu, thận trái được ghép tự nhiên vào hố chậu phải; trường hợp thận phải, sẽ dùng kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu để có thể ghép vào hốc chậu phải mà không cần phải dùng mảnh ghép tĩnh mạch hiễn trong. Các biến chứng sau mổ *Khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy **Bộ môn Tiết Niệu Học, Khoa Y Đại học Y Dược Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Sinh. ĐT: 0989047088. Email: tnsinh09@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 388 trong vòng 3 tháng đầu như nhiễm khuẩn, chảy máu sau mổ, hẹp động mạch thận... không đáng kể và không như lo ngại trước đây về ghép thận tại Việt Nam.Vấn đề ức chế miễn dịch không phải là trở ngại lớn trong loạt này với người cho sống và có quan hệ gia dình, thải ghép cấp dễ dàng khống chế với Methyl-Prednisolone liều cao. Từ khoá: Ghép thận đồng loại, Ghép thận từ người hiến thận sống, Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép ABSTRACT SURGICAL RESULTS OF LIVING DONOR TRANSPLANTATION (201 CASES) OF CHORAY HOSPITAL Tran Ngoc Sinh, Chu Van Nhuan, Duong Quang Vu, Thai Minh Sam, Chau Quy Thuan, Du Thi Ngoc Thu, Hoang Khac Chuan, Tran Trong Tri, Nguyen Thi Thai Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 387 - 497 Objective: Kidney transplantation (KTx) of Cho Ray Hospital (CHR) is mainly from the living and related donor. We would like to report the results of our series. Materials and Methods: A case study on the serial from 1992 to 2010 of CHR. The patients were on hemodialysis or on CAPD. The donor were select based on the compatibility to the receipient and a open nephrectomy (1992-2004) or laparoscopic nephrectomy (2004-2005), then retroperitoneal laparoscopic nephrectomy (2005-2010). The receipient underwent a transplantation by a vascular anastomosis (renal vein: end to side with the external iliac vein; artery: end to end with the internal iliac artery except and contraindication due to an atherosclerosis). From year 1998, we have introduce the “vascular disposition technique” for the short vein graft (right kidney) and we can transplant only on the right iliac fossa (RIF) except a contraindication due to a surgical history of the RIF. The immuno-suppresive regiment was a convention formula: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), Azathioprime (AZA) or Mycofenolate Mofetil (MMF). The surgical results was assessed on per-operative and postoperative following up to 3 months. Results: There were 202 KTx on 201 patients (pts). Everage of age was 33.98 ± 9.44y/o (n=201 pts). 135/201 (67.16%) were males; 66/201 (32.84%) were females, range: 61 and 15 y/o. There was one pts with 2 times KTx. 198/201 (98.51%) were related donor KTx. And only 3/201 (1.49%) were non related KTx. There were 52/202 (25.74%) right renaal grafts and 150/202 thận (74.26%) left renal grafts. Three operation were used for nephrectomy: open 88/202 (43.56%), laparoscopic 13/202 (6.44%) and retroperitoneal 101/202 (50.00%). The post-operatve results after 3 monts were satisfactory in 201/202 RTx (99.5%), one RTx was failed due to pyperacute rejection (negative fault of anti- leucocyte antibody). Post-operative complications: dead (0.0%), wound infections (0.0%), bleeding 2/201 (0.99%);, arterial stenosis (0.0%), urinary leaking 4/201 (1.99%), delayed function 2/201TH (0,99%). Immuno-response: 49/201 (24.38%) acute rejection, sensible to corticotherapy. No nephrectomy due to acute rejection. Conclusion: KTx becomes regular operation of CHR. The surgical results was satisfacory, no severe complication, neither surgical mortality rate. After 18 years, we have some experience with the biggest number in Vietnam. But we need expand more the number of KTx, not only with living donor but with the brain dead donor. Keyword: Allograft in Việt Nam, living donor transplantation,laparoscopic living donor nephrectomy MỞ ĐẦU KTx tại BVCR thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua, trong đó có một số kỹ thuật sáng tạo riêng của nhóm ghép BVCR. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 389 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp Nghiên cứu trường hợp lâm sàng Đối tượng nghiên cứu - Bệnh nhân là các trường hợp được KTx tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1992 đến 2009. - Tiêu chuẩn loại trừ ; các trường hợp chống chỉ định phẫu thuật: rối loạn đông máu, suy tim nặng, nhiễm khuẩn đang diễn tiến, chạy thận nhân tạo chưa đủ, bất hoà hợp các tiêu chuẩn miễn dịch ghép. Nội dung nghiên cứu: - Chọn người hiến hiến và nhận thận theo tiêu chuẩn KTx của Bộ Y Tế (VN), thông qua Hội đồng KTx BVCR. - Chuẩn bị tiền phẫu + Xét nghiệm tiền phẫu theo thường quy của đại phẫu. + Chạy thận nhân tạo đủ trước mổ, cập nhật bilan về chức năng thận sau chạy thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng (ion đồ và thăng bằng kiềm-toan) (cập nhật vào sáng ngày trước mổ). + Kiểm tra chức năng đông máu: vào buổi sáng, trước mổ (kiểm tra ảnh hưởng của Heparin dùng trong thận nhân tạo hôm trước mổ). Phương pháp vô cảm: gây mê Sau mổ dùng giảm đau loại truyền tĩnh mạch, hoặc dùng phương pháp gây tê ngoài màng cứng cho thuốc giảm đau liên tục (giai đoạn 2004-2010). - Mổ lấy thận ghép: mổ mở cắt thận (1992- 2004), cắt thận qua nội soi ổ bụng hay nội soi sau phúc mạc (2004-2010). - Kỹ thuật mổ: Thời gian đầu, từ năm 1992 đến 1997, thận phải được ghép vào hốc chậu trái, thận trái ghép vào hốc chậu phải. Thời gian sau, 1997-1998, do chỉ có 1 kíp mổ, do phát kiến kỹ thuật chuyển vị mạch máu, thận được ghép vào hố chậu phải là chỉ định chọn lựa chủ yếu dù thận ghép là thận lấy từ bên phải hay bên trái. - Phương pháp khâu nối mạch máu: nối động mạch thận vào động mạch chậu trong, nếu có nhiều động mạch thận có thể tạo hình mạch máu ngoài cơ thể (trên bàn rửa thận lúc lấy thận), hoặc cắt động mạch chậu trong chừa các nhánh tương ứng. Trường hợp động mạch chậu trong bị tắc hay bị xơ vữa, sẽ chọn động mạch chậu ngoài hay động mạch chậu trong. - Phương pháp cắm niệu quản vào bàng quang kiểu “Chu Shue LEE” (gần giống phương pháp Le Duc) được thực hiện cho 3 trường hợp đầu. Cắm lại niệu quản theo kỹ thuật Politano-Leadbetter có đặt một thông niệu quản làm nòng mở ra da qua ngả bàng quang, rút thông vào ngày thứ 7 đến 10 sau mổ (loạt 1992-2009) tùy trường hợp; hoặc theo Lich-Gregoir cải biên bằng cách có đặt một thông JJ niệu quản-bàng quang làm nòng, không mở ra ngoài nhưng khâu vào ống thông niệu đạo-bàng quang bằng chỉ không tan, cả 2 ống thông cùng được rút bỏ vào ngày thứ 7 đến 14 sau mổ (loạt 2004-2010) - Theo dõi sau ghép trong điều kiện cách ly vô khuẩn (tuyệt đối trong 7 ngày đầu và tương đối trong 7 ngày kế tiếp), cắt chỉ muộn hơn mổ thường (10 đến 14 ngày), xuất viện 15 ngày sau mổ nếu diễn tiến tốt. - Thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập: thay đổi theo điều kiện có thuốc của khoa Dược: Azathiopim 100mg (AZA) và Cysclosporine A (CsA) 5mg/kg vào ngày trước mổ, hoặc thay CsA bằng Tacrolimus 0,1 đến 0,2 mg/kg, trong mổ trước khi mở kẹp có dùng Methyl- Prednisolone truyền nhanh 500mg, những ngày sau giảm liều dần. Những năm đầu có dùng dẫn nhập bằng Cyclosporine A tĩnh mạch (theo phác đồ của GS Chue Shue Lee, người KTx đầu tiên tại Việt Nam). Từ năm 1994 về sau có dùng các loại “ kháng thể đơn dòng” như Basiliximab (Simulect®) hoặc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 390 Daclizumab (Zenapax®), “kháng thể đa dòng” chưa dùng vì thị trường tại chỗ chưa có. - Thuốc ức chế miễn dịch dùng sau KTx theo công thức quy ước: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), và Azathioprime (AZA) hoặc Mycofenolate Mofetil (MMF). - Kết quả phẫu thật được đánh giá theo theo diễn tiến sau mổ, chức năng thận và biến chứng phẫu thuật nếu có (kể cả biến chứng cũa đáp ứng miễn dịch ghép và do thuốc ức chế miễn dịch; thải ghép tối cấp và thải ghép cấp). - Bệnh nhân được khám định kỳ theo dõi biến chứng sau ghép, điều trị chống thải ghép và hướng dẫn chế độ phòng ngừa biến chứng do thuốc ức chế miễn dịch. - Thống kê theo dõi 3 tháng sau mổ cho thấy các kết quả ngoại khoa trên đối tượng là người suy thận mạn giai đoạn cuối được điều trị bằng KTx. KẾT QUẢ Đặc điểm bệnh nhân (người nhận thận) - Bệnh nhân và lần ghép: từ năm 1992 đến 10/2010 có 202 lần ghép với 201 người nhận (có một người ghép 2 lần). Tất cả đều ghép từ người hiến thận có liên hệ huyết thống trừ 3/202 (1,49%) TH: 1 TH vợ cho chồng, 1 TH cha nuôi cho con, và 1 TH sư cô cho đệ tử, tất cả còn lại (199/202 TH, 98,51%) ghép từ người hiến thận có liên hệ huyết thống. 1 TH. thải ghép tối cấp phải cắt bỏ thận sau khi theo dõi đến ngày thứ 8. Thử kháng thể kháng bạch cầu (tiền mẫn cảm) trong 10 ngày sau ghép thấy dương tính mạnh dù trước đó âm tính. Tuy nhiên giải phẫu bệnh không chứng minh được đó là thải ghép tối cấp (BS Trần Minh Thông, BVCR, cho kết quả là thải ghép cấp; mẫu gửi thử tại Thái Lan cho kết quả là hoại tử ống thận cấp). + Các kết quả hoà hợp HLA: không có trường không hoà hợp hoàn toàn. Những trường hợp hoà hợp dưới 3/6 locus HLA thường là anh em ruột, anh em bạn dì, chú bác (liên hệ cấp F3).Trên 3 người hiến thận không cùng huyết thống, có một người hoà họp 3/6 (“cha nuôi “ cho con), hai người còn lại hoà hợp 1/6. Bảng 1: Đặc điểm của người nhận thận (n=201 TH): giới tính, tuổi, mối quan hệ với người hiến thận (201 TH và số cuộc mổ KTx là 202 cuộc mổ ghép) ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG Số TH hoặc lần mổ ghép Tỉ lệ Nam 135/201 67,16 Nữ 66/201 32,84 Tuổi trung bình 33.98 ± 9,44 Tuổi lớn nhất 61 Tuổi nhỏ nhất 15 Có quan hệ huyết thống 199 98,51 Không có quan hệ huyết thống 3 6,44 Cùng nhóm máu 151/202* 74,75 Hòa hợp nhưng khác nhóm máu 51/202 25,25 Tiền mẫn cảm (kháng thể kháng HLA) 201/201 100,0% Không hòa hợp HLA 0 0% Có hòa hợp 1 đến 2 locus HLA 37/201 18,41 Có hòa hợp 3 đến 6 locus HLA 164/201 81,59 *Có 202 người hiến thận (202 lần xét nghiệm, cuộc mổ) và 201 người nhận (có 1TH ghép 2 lần) - Đặc điểm về nguyên nhân gây suy thận mạn giai đoạn cuối, bảng 2 cho thấy đa số không biết nguyên nhân vì phát hiện muộn. Bảng 2: Nguyên nhân suy thận của 201 trường hợp KTx (1992-2010), đa số không biết nguyên nhân (phát hiện muộn). Nguyên nhân Số trường hợp Tỉ lệ (n=201) Đái tháo đường 2 1,00 Viêm cầu thận cấp diễn tiến 3 1,49 Thận hư 0 0,00 Thận đa nang 2 1,00 Không rõ nguyên nhân 194 96,52 Số bệnh nhân ghép hàng năm - Sau những trường hợp đầu thưa thớt (1992- 2000), sau năm 2000, số lượng ghép tăng lên nhiều lần, một năm bằng từ 2 lần đến 5 lần tổng số của 10 năm trước cộng lại. - Biểu đồ 1 trình bày số trường hợp ghép hàng năm, trong đó 10 trường hợp đầu tiên có sự tham gia ghép của cố Giáo Sư Chu Shue LEE, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 391 cố Phó Giáo Sư Tôn Thất Bách (thuộc Uỷ Ban KTx quốc gia); GS Luc De Bauwn và BS Hoàng Anh Dũng (Vương Quốc Bỉ). Những trường sau do nhóm BV Chợ Rẫy thực hiện (theo phác đồ ghép chuyển vị mạch máu, chủ yếu là ghép vào hốc chậu phải). 2 2 3 3 7 10 25 25 18 15 9 13 16 28 26 0 5 10 15 20 25 30 1992 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 soá TH soá TH Biểu đồ 1: Phân bố những trường hợp KTx tại BVCR theo năm (201 TH và số cuộc mổ KTx là 202 cuộc mổ ghép). Từ 1992-1999 có 10 TH, ghép với sự tham gia của Hội Đồng Ghép thận Quốc Gia hoặc chuyên gia quốc tế hỗ trợ, từ năm 2000, ghép do ê kíp BVCR thực hiện. Chuẩn bị tiền phẫu Chạy thận nhân tạo đủ trước mổ: 197/201 lần ghép (98,01%), lọc màng bụng liên tục (CAPD): 3/201 lần ghép (1,49%), không dùng điều trị thay thế thận trước mổ: 1/201 lần ghép (0,5%). Những trường hợp lọc máu trước mổ không đủ phải hoãn mổ: 6/201 TH (2,99%). Thận ghép - Được lấy từ người sống hiến thận, bên của thận ghép được chọn theo nguyên tắc, nếu hai thận bình thường về chức năng và hình thể: chọn bên trái; nếu 2 thận bình thường nhưng có 1 bên kém hơn về chức năng và hình thể: chọn bên kém. Bên của thận ghép và các phẫu thuật lấy thận để ghép trên 202 người hiến thận,. Trong đó có 3 phương pháp lấy thận từ người hiến thận được áp dụng như sau: (trình bày ở bảng 2) + Thận ghép lấy từ bên trái: 52/202 thận (25,74%) + Thận ghép lấy từ bên trái: 150/202 thận (74,26%) Các phẫu thuật lấy thận để ghép trên 202 người hiến thận. Có 3 phương pháp lấy thận từ người hiến thận được áp dụng, phương pháp mổ mở được từ bỏ sau năm 2004 (chỉ để dự phòng mổ nội soi thất bại, chuyển mổ, nhưng chưa có trường hợp nào) (trình bày ở bảng 4). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 392 Bảng 4: Bên của thận ghép và các phẫu thuật lấy thận để ghép trên 202 người hiến thận, 202 lần ghép cho 201 trường hợp (1992-2010). Bên của thận được lấy ghép và phương pháp lấy Số lần mổ ghép Tỉ lệ (n=202) Thận ghép lấy từ bên phải 52 25,74% Thận ghép lấy từ bên trái 150 74,26% Thận ghép lấy bằng phẫu thuật mở (1992-2004) 88 43,56% Thận ghép lấy từ phẫu thuật nội soi qua ổ bụng (2004-2005) 13 6,44% Thận ghép lấy từ phẫu thuật nội soi qua ngả sau phúc mạc(2005-2010) 101 50,00% Chọn vị trí cho thận ghép - Ghép vào hốc chậu phải: có 199/202 lần ghép (98,51%); Ghép vào hốc chậu trái: có 3/202 lần ghép (1,49%), có 1 TH ghép lần 2 phải chọn hốc chậu trái, 2 TH khác ghép sau khi cắt thận trái vì bệnh đa nang Tuỳ theo thận ghép là trái hay phải, cần chọn bên để ghép, trong loạt này ngoài 10 TH đầu tiên, theo chủ trương thận trái ghép vào bên phải và ngược lại. Nhưng không có trường hợp nào lấy thận phải trong loạt (lúc đó chỉ dựa vào hình thể mạch máu và UIV là chính, chưa dùng đến xạ ký thận đồng vị nên dễ dàng chọn thận trái hơn). Trong loạt sau (từ năm 1998 đến 2010) chúng tôi có chủ trương thận trái hay phải đều ghép vào hốc chậu phải. Thận phải có vị trí tĩnh mạch không tương hợp về vị trí giải phẫu, sẽ được chuyển vị. Nếu thận phải có cuống tĩnh mạch ngắn thì bóc tách làm dài ra và và cũng chuyển vị tĩnh mạch chậu trong cho phù hợp (bảng5) Bảng 5: Vị trí ghép trên người nhận của 202 lần ghép cho 201 trường hợp (1992-2010). Phương pháp phẫu thuật Số lần mổ ghép Tỉ lệ (n=202) Thận ghép lấy từ bên phải, ghép vào hốc chậu trái 01* 0,50 Thận ghép lấy từ bên phải, ghép vào hốc chậu phải 51 25,25 Thận ghép lấy từ bên trái, ghép vào hốc chậu phải 147 72,77 Thận ghép lấy từ bên trái, ghép vào hốc chậu trái 3 1,49 Phương pháp phẫu thuật Số lần mổ ghép Tỉ lệ (n=202) Tổng cộng 202 100,0 * 1 ghép lần 2 phải chọn hốc chậu trái, 1 TH ghép sau khi cắt thận trái vì bệnh đa nang Phương pháp ghép ghép nối mạch máu Chọn động mạch ghép trên người nhận: + Ghép vào động mạch chậu trong: thực hiện một cách hệ thống, có 187/202 cuộc mổ ghép (92,57%). Một BN mổ ghép 2 lần. + Ghép vào động mạch chậu ngoài (nối tận- bên): chỉ thực hiện khi không dùng động mạch chậu trong dược, có 11/202 cuộc mổ ghép (5,45%). Tất cả nguyên nhân đều do động mạch chậu trong bị xơ vữa. + Ghép vào động mạch chậu chung: có 1/202 (0,5%) trường hợp. Phương pháp ghép niệu quản Cắm lại niệu quản theo kỹ thuật “ Chu Shue Lee”: 3 cuộc mổ đầu tiên (1,49%). Cắm lại niệu quản theo kỹ thuật Politano- Leadbetter cải biên (có đặt thông niệu quản làm nòng): 32/202 lần mổ (15,84%) (loạt 1992-2004) - Lich-Gregoir cải biên bằng cách có đặt một thông JJ niệu quản-bàng quang làm nòng: 162/202 cuộc mổ (80,2%) (loạt 2004-2010). Chức năng thận sau ghép Có nước tiểu tại bàn: 179/201 cuộc mổ (89,05%). Có nước tiểu vào những giờ sau mổ: 20/201 cuộc mổ (9,95%). Chức năng thận chậm phục hồi: 2/201 cuộc mổ (1,00%). Chậm chức năng thận sau mổ 2 TH, trong loạt đầu tiên của phương ph
Tài liệu liên quan