Mục đích: Nhằm đánh giá lại kỹ năng, kết quả điều trị bệnh lý túi mật bằng phẫu thuật nội soi, góp phần
bàn luận về chỉ định mổ và các biến chứng của phẫu thuật.
Phương pháp: 139 trường hợp bệnh lý túi mật được phẫu thuật nội soi tại khoa ngoại tổng hợp bệnh viện
Nguyễn Tri Phương từ 09/2011 đến 08/2012.
Kết quả: 139 trường hợp, nữ 96 (69,1%), nam 43 (30,90%). Chỉ định mổ: sỏi túi mật 47 (33,8%), viêm túi
mật cấp 33 (23,7%), viêm túi mật mạn 27 (19,4%), hoại tử túi mật 23 (16,5%), polyp túi mật 8 (5,8%), ung thư
túi mật 1 (0,7%). Mổ nội soi 133 (95,65%), mổ hở 5 (3,59%), chọc dẫn lưu túi mật xuyên gan 2 (1,43%), tổn
thương đường mật 3(2,2%), không có trường hợp tử vong, kết quả tốt (97,1%).
Kết luận: Phẫu thuật nội soi gần như là phương pháp chủ yếu điều trị bệnh lý túi mật, chỉ định mổ ngày
càng rộng rải hơn ngay cả túi mật viêm dính nhiều hoặc hoại tử hoặc có vết mổ cũ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải
nắm rõ cấu trúc giải phẫu cũng như kỹ năng thao tác, nếu không rất dễ gây ra những thương tổn nặng nề khó
khắc phục hậu quả.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 50
PHẪU THUẬT CẮT TÚI MẬT NỘI SOI
TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Huỳnh Thanh Long*, Nguyễn Văn Vượng*, Võ Bích Đại Hào*, Nguyễn Thị Thiên Kim*
TÓM TẮT
Mục đích: Nhằm đánh giá lại kỹ năng, kết quả điều trị bệnh lý túi mật bằng phẫu thuật nội soi, góp phần
bàn luận về chỉ định mổ và các biến chứng của phẫu thuật.
Phương pháp: 139 trường hợp bệnh lý túi mật được phẫu thuật nội soi tại khoa ngoại tổng hợp bệnh viện
Nguyễn Tri Phương từ 09/2011 đến 08/2012.
Kết quả: 139 trường hợp, nữ 96 (69,1%), nam 43 (30,90%). Chỉ định mổ: sỏi túi mật 47 (33,8%), viêm túi
mật cấp 33 (23,7%), viêm túi mật mạn 27 (19,4%), hoại tử túi mật 23 (16,5%), polyp túi mật 8 (5,8%), ung thư
túi mật 1 (0,7%). Mổ nội soi 133 (95,65%), mổ hở 5 (3,59%), chọc dẫn lưu túi mật xuyên gan 2 (1,43%), tổn
thương đường mật 3(2,2%), không có trường hợp tử vong, kết quả tốt (97,1%).
Kết luận: Phẫu thuật nội soi gần như là phương pháp chủ yếu điều trị bệnh lý túi mật, chỉ định mổ ngày
càng rộng rải hơn ngay cả túi mật viêm dính nhiều hoặc hoại tử hoặc có vết mổ cũ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải
nắm rõ cấu trúc giải phẫu cũng như kỹ năng thao tác, nếu không rất dễ gây ra những thương tổn nặng nề khó
khắc phục hậu quả.
Từ khóa: sỏi túi mật, viêm túi mật cấp, viêm túi mật mạn, polyp túi mật, ung thư túi mật, cắt túi mật nội soi.
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY AT NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL
Huynh Thanh Long, Nguyen Van Vuong, Vo Bich Dai Hao, Nguyen Thi Thien Kim
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 49 ‐ 54
Background: Evaluation of surgical indications, techniques, results and complications of laparoscopic
cholecystectomy.
Methods: Review of 139 cases of gallbladder diseases treated with laparoscopic cholecystectomy at Nguyen
Tri Phuong Hospital from September 2011 to July 2012.
Results: Among 139 cases, there were 96 female patients (69.1%) and 43 male patients (30.9%). Surgical
indications included gallbladder stones: 47 cases (33.8%), acute cholecystitis: 33 cases (23.7%), chronic
cholecystitis: 27 cases (19.4%), necrotic cholecystitis: 23 cases (16.5%), gallbladder polyps: 8 case (5.8%),
gallbladder cancer: 1 case (0.7%). Surgical techniques included laparoscopy: 133 interventions (95.65%),
percutaneous biliary drainage: 2(1.43%, bile duct injures 3 (2.2%), conversion to laparotomy: 4 interventions
(2.97%). There was no mortality.
Conclusion: Laparoscopic cholecystectomy becomes a predominant method for the treatment of gallbladder
diseases. Surgical indications becomes more broadened nowadays, even in cases of cholecystitis with severe
adhesions, necrotic cholecystitis or patients with pre‐existing surgical scars. However, anatomy knowledge and
techniques of laparoscopic cholecystectomy should be mastered to avoid severe complications.
Keywords: gallbladder stones, acute cholecystitis, chronic cholecystitis, gallbladder cancer, laparoscopic
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: Bs.Huỳnh Thanh Long ĐT: 0913.750664 Email: bs.huynhlong@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 51
cholecystectomy
MỞ ĐẦU
Cắt túi mật nội soi hiện nay gần như là
phương pháp chủ yếu điều trị bệnh lý túi mật.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương đã thực hiện
phẫu thuật nội soi từ lâu, tuy nhiên do hoàn
cảnh lịch sử gần đây chúng tôi mới triển khai
rộng rãi phẫu thuật nội soi trong nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là phẫu thuật nội soi trong điều trị bệnh
lý túi mật. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm
đánh giá lại kỹ năng và kết quả điều trị bệnh lý
túi mật bằng phẫu thuật nội soi, cũng như góp
phần bàn luận về chỉ định mổ và các biến chứng
của phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG –PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả những bệnh nhân trên 15 tuổi có chỉ
định mổ cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại tổng
hợp từ 01/09/2011 đến 01/08/2012.
Tiêu chuẩn loại trừ
Xơ gan mất bù.
Suy tim, suy hô hấp
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả cắt ngang, mỗi bệnh nhân có
1 bệnh án nghiên cứu riêng
Cỡ mẫu: áp dụng công thức:
2
2
2/1 d
P1P.ZN
Trong đó:
N: cở mẫu cần thiết cho nghiên cứu.
Z: trị số tính từ phân phối chuẩn, mức ý
nghĩa = 5% Z1‐/2 = 1,96.
: mức ý nghĩa thống kê.
d: độ chính xác mong muốn, trong nghiên
cứu này với độ chính xác tuyệt đối 95% tức d =
0,05%.
P: trị số mong muốn của tỉ lệ (theo nghiên
cứu của p = 90%).
Thay vào công thức: N = 138,31.
Số mẫu dự định khoảng 100 trường hợp.
Ở đây mẫu nghiên cứu là 139 trường hợp.
Phân tích số liệu: thu thập số liệu theo
protocol định sẵn. Lưu trữ và xử lý thống kê số
liệu bằng phần mềm Excel 2007 và SPSS 15.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện từ 01/09/2011 đến
01/08/2012, có 139 trường hợp cắt túi mật nội soi.
Tuổi
Nhỏ nhất: 18, lớn nhất:, 88, trung bình: 51,38
16,89.
Giới
Trong 139 bệnh nhân, nữ 96 (69,1%), nam 43
(30,9%), tỉ lệ nam/nữ là 1/2,23.
Tiền căn
Bảng 1. Phân bố theo tiền căn
Tiền căn Tần số Tỷ lệ %
Cao huyết áp 36 25,9
Tiểu đường 39 28,1
Tim mạch 6 4,3
Hô hấp 4 2,9
Sỏi túi mật 73 52,5
Viêm tụy cấp 4 2,9
Đau thượng vị 17 12,2
Đau hạ sườn phải 46 33,1
Nhận xét: trong lô nghiên cứu bệnh nhân có
tiền căn cao huyết áp, tiểu đường, viêm dạ dày
chiếm tỉ lệ cao. Có lẽ đây là lý do bệnh nhân ngại
mỗ, dẫn đến viêm túi mật hoại tử do đến bệnh
viện trễ.
Đau bụng
Đau bụng Tần số Tỷ lệ %
Không 10 7,2
Có 129 92,8
- Đau hạ sườn phải 123 95,4
- Đau thượng vị 3 2,3
- Khác 3 2,3
Tổng 139 100
Đa số các bệnh nhân đều có triệu chứng đau
bụng (92,8%), đây là lý do chính để bệnh nhân
nhập viện.
Cận lâm sàng
Bạch cầu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 52
Bảng 2. Bạch cầu
Bạch cầu Tần số Tỷ lệ %
< 10.000 54 38,8
10.000– 15.000 35 25,2
> 15.000 50 36,0
Tổng 139 100
Echo bụng
Bảng 3. Echo bụng
Echo bụng Tần số Tỷ lệ %
Túi mật nhỏ 70 50,4
Túi mật căng to 69 49,6
Thành mỏng 54 38,8
Thành dày 85 61,2
Số lượng Trocart
Có 129 trường hop sử dụng 3 trocart (92,8%),
10 trường hợp sử dụng 4 trocart (7,2%)
Thủng túi mật
Có 25 trường hợp thủng túi mật (18%),
không thủng túi mật 114 (82%).
Chảy máu trong mổ
Bảng 4. Số lượng máu chảy
Số lượng máu chảy Tần số Tỷ lệ %
Không chảy máu 113 81,29
< 100 ml 24 17,26
> 500ml 2 1,45
Tổng 139 100
Chuyển mổ hở
Có 133 trường hợp mổ nội soi (96,65%),
chuyển mổ hở 4 (2,9%), chọc dẫn lưu túi mật
xuyên gan 2 (1,45%).
Dẫn lưu
Có dẫn lưu 36 (25,9%), không dẫn lưu 103
(74,1%).
Tổn thương đường mật
Có 3 trường hợp (2,15%), 2 trường hợp tổn
thương ống mật chủ một phát hiện ngay lúc mổ,
một có biểu hiện hẹp đường mật sau 1 tháng, 1
trường hợp rò mật do tổn thương ống gan phải
phát hiện sau mổ.
Thời gian mổ
Sớm nhất: 25 phút, muộn nhất 180 phút,
trung bình 66,19± 32,42 phút
Chẩn đoán thương tổn
Bảng 5. Chẩn đoán thương tổn
Chẩn đoán thương tổn Tần số Tỷ lệ %
Sỏi túi mật 47 33,8
Viêm túi mật cấp 33 23,7
Viêm túi mật mạn 27 19,4
Hoại tử túi mật 23 16,5
Polyp túi mật 8 5,8
K túi mật 1 0,7
Tổng 139 100
Nhận xét: trong 139 trường hợp nghiên cứu,
tổn thương túi mật do sỏi chiếm hơn nửa số
bệnh nhân nghiên cứu.
Chọc dẫn lưu túi mật
Có 2 trường hợp chọc dẫn lưu túi mật
xuyên gan qua da (I,43%) do bệnh nhân có bệnh
lý nội khoa nặng không chịu được gây mê.
Thời gian trung tiện
Sớm nhất ngày thứ 1, muộn nhất ngày 3,
trung bình 1,27±0,49 ngày.
Thời gian xuất viện
Sớm nhất: 1 ngày, muộn nhất 10 ngày kể cả
mổ mở, trung bình 3,98± 1,86 ngày.
Tử vong
Không có trường hợp tử vong.
BÀN LUẬN
Trong tổng số 139 trường hợp cắt túi mật nội
soi chúng tôi chỉ có 4 trường hợp chuyển mổ hở
chiếm tỷ lệ 95,68%. Điều này chứng tỏ phẫu
thuật nội soi có thể thay thế mổ hở kinh điển để
điều trị bệnh lý túi mật.
Giới
Cũng giống như nhiều tác giả khác (2,4,10,16)
bệnh lý túi mật nhất là sỏi túi mật thường gặp ở
nữ nhiều hơn nam, trong lô nghiên cứu của
chúng tôi tỷ lệ nam/nữ là 1/2,23.
Tuổi
Trong lô nghiên cứu tuổi trung bình khoảng
51 tuổi, tương đương với các tác giả khác(2,8,10,16).
Số lượng Trocart
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 53
Trong lô nghiên cứu 139 trường hợp, có 129
trường hợp sử dụng 3 trocart (92,8%), 10 trường
hợp sử dụng 4 trocart (7,2%). Cũng giống như
các tác giả khác(4,12,15,16) đa số chúng tôi sử dụng 3
trocart, chúng tôi chỉ sử dụng 4 trong những
trường hợp gan rủ che lấp khó khảo sát được
vùng cuống gan hoặc trong những trường hợp
túi mật dính hoặc hoại tử khó thao tác. Theo
chúng tôi, nhất là trường hợp khi gan che khó
khảo sát ống mật chủ thì việc sử dụng trocart
thứ 4 để vén gan là thật cần thiết giúp cho cuộc
mổ an toàn và hiệu quả.
Thủng túi mật trong mổ
Chúng tôi có 25 trường hợp (18%), nguyên
nhân do cầm nắm túi mật hoặc lúc giải phóng
túi mật ra khỏi giường gan, hoặc chọc giải áp
đối với những trường hợp túi mật căng to khó
thao tác. Đối với những trường hợp này chúng
tôi chỉ hút và lau thật sạch vùng dưới gan, vài
trường hợp chúng tôi đặt dẫn lưu dưới gan và
rút sau 48 giờ. Chúng tôi không có trường hợp
nào tụ dịch hay apxe giường túi mật, đây là tai
biến do lỗi kỹ thuật dễ khắc phục. Theo y văn
thế giới cũng như của các tác giả khác thủng
túi mật trong mổ là 15%‐35%(4,7,8,10,12,16).
Chảy máu trong mổ
Có 24 trường hợp (17,26%) chảy máu
giường túi mật, lượng máu mất < 100ml,
chúng tôi chỉ đốt cầm máu. Nguyên nhân do
túi mật viêm dính nhiều, do kéo túi mật quá
thô bạo và không đúng qui cách gây rách gan,
giải phóng túi mật ra khỏi giường gan không
đúng lớp. Có 2 trường hợp chảy máu từ động
mạch túi mật (1,43%), chúng tôi dùng gạc chèn
vào vùng cuống gan, hút thật sạch máu và bộc
lộ rõ động mạch túi mật, sau đó dùng líp kẹp
động mạch túi mật, 1 trường hợp phải chuyển
mổ hở do bệnh nhân xơ gan rối loạn đông
máu, tỉ lệ mổ mở của chúng tôi là 3.57% tương
đương với các tác giả khác(4,10,12,16).
Thương tổn đường mật
Chúng tôi có 3 trường hợp (2,2%), 1 trường
hợp tổn thương ống mật chủ được phát hiện
trong mổ, một trường hợp hẹp đường mật sau
mỏ 1 tháng Chúng tôi chuyển mổ hở nối mật
ruột theo kiểu Roux en Y đối với trường hợp
đầu, còn trường hợp thứ 2 mổ nối Roux en Y sau
1 tháng. Trường hợp thứ 3 sau mổ rò mật mỗi
ngày > 100ml, bệnh nhân được nội soi mật tụy
ngược dòng phát hiên tổn thương là 1 lỗ rò ở
ống gan phải gần chỗ dỗ vào ống gan chung,
bệnh nhân được đặt sten bệnh ổn định xuất viện
sau 2 ngày. Trong cắt túi mật nội soi biến chứng
nặng nề và khó khắc phục nhất là tổn thương
đường mật chính, theo y văn thế giới tỉ lệ tổn
thương đường mật chính từ 0.2‐ 4% trong cắt túi
mật mở, trước kia người ta ghi nhận tỉ lệ này
thấp hơn mổ nội soi. Gần đây, tổn thương
đường mật trong cắt túi mật nôi soi chỉ còn
khoảng từ 0.5‐2%, tuy nhiên tỉ lệ này thay đổi
tùy tác giả, bởi vì còn phụ thuộc nhiều yếu tố
như kinh nghiệm phẫu thuật viên, tình trạng
thương tổn túi mật, hệ thống trang thiết
bị(6,7,9,13,14). Phân tích 3 trường hợp trên chúng tôi
ra nhận xét sau, trường hợp tổn thương ống mật
chủ, do ống túi mật dài và chạy song song ống
mật chủ, nhầm lẫn giữa ống túi mật và ống mật
chủ. Còn trường hợp tổn thương ống gan phải,
nguyên nhân do sỏi kẹt cổ gây viêm dính khi
bóc tách chảy máu, tổn thương ống gan phải là
do đốt cầm máu. Theo chúng tôi, cần phải bộc lộ
rõ vùng tam giác Calot, cho bệnh nhân nằm đầu
cao nghiêng trái, gỡ dính mạc nối, đại tràng
ngang, dạ dày tá tràng, dạ dày phải được làm
xẹp, mới thấy được rõ cấu trúc vùng cuống gan,
hạn chế đốt cầm máu khi không thấy rõ cấu trúc
giải phẫu.
Chọc dẫn lưu túi mật xuyên gan
Chúng tôi có 2 trường hợp (1,43%), bệnh
nhân lớn tuổi viêm túi mật do sỏi kẹt cổ, viêm
phổi, suy tim, tiểu đường. Cả 2 trường hợp
này siêu âm sỏi kẹt cổ thành túi mật dày, dịch
len giữa thành túi mật. Chúng tôi thực hiện
chọc dẫn lưu túi mật xuyên gan dưới hướng
dẫn của siêu âm ra mũ đục hôi, sau chọc bệnh
ổn định hẹn phẫu thuật khi bệnh lý nội khoa
ổn định. Chúng tôi, nhận thấy chọc dẫn lưu túi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 54
mật xuyên gan dưới hướng dẫn siêu âm an
toàn và dễ thực hiện có hiệu quả. Theo một số
tác giả dối với những bệnh nhân có bệnh nội
khoa nặng nề không chịu được gây mê, đồng
thời trên siêu âm vách túi mật thành dày thì
việc chọc dẫn lưu túi mật xuyên gan dưới siêu
âm an toàn và hiệu quả(11).
Chỉ định mổ
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi thực hiện
ngay cả trong trường hợp túi mật hoại tử. Quan
điểm trước kia viêm túi mật cấp do sỏi được
điều trị nội khoa, đặt sonde mũi dạ dày, kháng
sinh, kháng tiết 5‐ 7 ngày sau đó mới phẫu
thuật, vì cho rằng mổ ngay trong cấp cứu khó
làm do dính và dễ chảy máu. Chúng tôi thực
hiện trong cấp cứu túi mật viêm cấp, viêm mạn,
sỏi kẹt cổ, hoại tử túi mật, chúng tôi nhận thấy
rằng nếu nắm rõ cấu trúc giải phẫu và thao tác
thành thục việc xử lý túi mật cũng đơn giản an
toàn và hiệu quả, chúng tôi đã thưc hiện mổ cấp
cứu 56 trường hợp (50,2%).
Chuyển mổ mở
Chúng tôi có 4 trường hợp chuyển mổ mở
(2,9%): 1 trường hợp ung thư túi mật, 1 trường
hợp tổn thương ống mật chủ, 1 trường hợp chảy
máu do rối loạn đông máu, 1 trường hợp do
viêm dính quá nhiều không bộc lộ được vùng
dưới gan. Tỉ lệ chuyển mổ mở của chúng tôi là
3.57% tương đương với các tác giả khác(10,12,16,17).
Cần phải xác định rằng chuyển mổ mở không
phải là thất bại của cuộc mổ mà là những trường
hợp thiếu chỉ định mổ nôi soi. Chúng tôi có 133
trường hợp mổ nội soi (95,65%) tương đương
với các tác giả khác(4,6,10,12,16). Điều này cho thấy
phẫu thuật nội soi gần như là phương pháp chủ
yếu diều trị bệnh lý túi mật.
KẾT LUẬN
Qua 139 trường hợp cắt túi mật nội soi
trong điều trị bệnh lý túi mật tại khoa ngoại tổng
hợp bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ 9/2011
đến 8/2012, chúng tôi nhận thấy:
Bệnh lý túi mật đa phần là do sỏi, những
bệnh nhân có sỏi túi mật lại thường kèm theo
một số bệnh lý nội khoa. Chính vì thế đa phần
bệnh nhân nhập việc trong tình trạng thương
tổn túi mật nặng nề.
Chúng tôi thực hiện được 56 trường hợp cắt
túi mật nội soi cấp cứu(50,2%),. Tỷ lệ chuyển mổ
mở 4(2,9%), tỷ lệ biến chứng là 3 (2,2%), không
có trường hợp nào tử vong, tỷ lệ cắt túi mật nội
soi 133 (95,65%)., thời gian mổ và thời gian xuất
viện sớm. Điều này cho thấy cắt túi mật nội soi
hầu như là phương pháp chủ yếu trong điều trị
bệnh lý túi mật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adamsen S et al (1997). Bile duct injuryduring laparoscopic
cholecystectomy a prospective nationwide series. Journal of
Americain college of surgeons. 571‐577.
2. Đoàn Thanh Tùng (2005). Viêm túi mật cấp. Cấp cứu ngoại
khoa tiêu hóa. Nhà xuất bản Y học, tr 158‐164.
3. Lê Quang Quốc Ánh (1997). Nội soi mật tụy ngược dòng. Hội
nghị khoa học kỹ thuật DHYD TP HCM & Bệnh viện Đa
khoa Đồng Tháp. 63‐80.
4. Lê Trung Hải (2008). Phẫu thuật nội soi ổ bụng và kỹ thuật
cắt túi mật nội soi. Lâm sàng ngoại khoa gan mật. Nhà xuất
bản Y học, tr 157‐167.
5. Moosa AR, et al (1992). Laparoscopic injuries to the bile duct:
a causefor concern. Ann Surg; 215:203:208.
6. Nguyễn Cường Thịnh (2006). Tổn thương đường mật trong
cắt túi mật nội soi. Tạp chí Y học Việt Nam. Chuyên đề phẫu
thuật nội soi và nội soi can thiệp. Số đặc biệt tháng 2‐2006, tr
208‐213.
7. Nguyễn Cường Thịnh. Xử lý các biến chứng cắt túi mật nội
soi. Tạp chí y học quân sự, (3), tr 109‐115.
8. Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Mậu Anh (2012). Sỏi đường mật.
Nhà xuất bản Y học 2012, tr 311‐333.
9. Nguyễn Hoàng Bắc và cs (1988). Tổn thương đường mật
chính trong phẫu thuật cắt túi mật qua nội soi, Ngoại khoa, số
chuyên đề về hội thảo phẫu thuật nội soi can thiệp, tập:23:6,
1998,tr 36.
10. Nguyễn Tấn Cường (1995). Kết quả của phẫu thuật cắt túi
mật nội soi ổ bụng. SHKHKT Y‐ Dược lần thứ IVvà chương
trình Grall 16‐ 18/ 11/1995 tại TP HCM.
11. Nguyễn Văn Phước (2003). Dẫn lưu đường mật xuyên gan
dưới siêu âm trong nhiễm trùng đường mật. Luận văn Thạc
sĩ DHYD 2003.
12. Phạm Duy Hiển (1999). Kết quả bước đầu điều trị viêm túi
mật do sỏi bằng phẫu thuật nội soi. Báo cáo khoa học. Đại hội
ngoại khoa Việt Nam lần thứ X, Hà nội, 29‐30/10/1999; Tập 1:
96‐102.
13. Samiyeh A et al (2004). Laparoscopiccholecystectomy: early
and late complication and their treatment. Langenbecks
archive of surgery. 2004; 1‐16.
14. Soderlund et al (2005). Bile duct injuries at laparoscopic
cholecystectomy: A single institution prospective study.
Acute cholecystitis indicates an increased hisk. World J Surg.
28,987,993.
15. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách (2003). Phẫu thuật nội soi ổ
bụng. Nhà xuất bản Y học Hà nội, tr13,144.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 55
16. Trần Bình Giang và cs (1998). Phẫu thuật CTMNS tại BV Việt
Đức.Ngoại khoa chuyên đề về hợi thảo PTNS và NS can thiệp
tập 23:6‐ phần II‐ 1988,tr7.
17. Văn Tần và cs (2000). Biến chứng cắt túi mật qua nội soi ổ
bụng tại bệnh viện Bình Dân nhân 963 trường hợp. Báo cáo
tại Hội nghị quốc tế về phẫu thuật nội soi tại Singapore 1‐4
tháng 6 năm 2000, sách tổng kết NCKHKT BV Bình Dân năm
2000.
Ngày nhận bài báo 17‐09‐2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24‐03‐2013
Ngày bài báo được đăng: 20–04‐2013