Mở đầu: Ngày nay, cắt túi mật qua nội soi ổ bụng được coi là tiêu chuẩn vàng trong chọn lựa điều trị bệnh
lý túi mật tại các bệnh viện. Có nhiều nghiên cứu sử dụng 1 trocar rốn để cắt túi mật nhưng hầu hết các nghiên
cứu này đều sử dụng một trocar rốn có nhiều kênh thao tác và dụng cụ phẫu thuật chuyên biệt không hiện có tại
các bệnh viện. Chúng tôi giới thiệu kết quả bước đầu phương pháp cắt túi mật qua ngã nội soi ổ bụng, sử dụng 2
trocar qua 1 đường rạch da ở rốn với những dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng để cắt túi mật nhằm đánh
giá tính khả thi của phương pháp này.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật cắt túi mật qua ngã nội soi ổ
bụng, sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn so với cắt túi mật nội soi kinh điển với
3 trocar.
Đối tượng- Phương pháp: Từ tháng 8/2010 đến tháng 9/2011, chúng tôi thực hiện 19 trường hợp cắt túi
mật qua ngã nội soi với 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn. Chúng tôi sử dụng 1 trocar 5mm và 1 trocar 10mm
đặt qua đường rạch da này, dùng kính soi 5mm và dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng tại bệnh viện, 2 nơ
chỉ treo ở đáy và phễu túi mật giúp bộc lộ rõ tam giác gan mật. Túi mật được cắt và lấy ra ngoài qua đường rạch
da ở rốn.
Kết quả: 19 trường hợp cắt túi mật qua ngã nội soi với 2 trocar, tuổi trung bình 49, thời gian mổ 68,2±40
phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 2 ngày. Có 3 trường hợp thêm trocar 5 mm hạ sườn phải để cầm
máu giường túi mật và dẫn lưu, không có trường hợp nào chuyển mổ mở. Chúng tôi không gặp tai biến hay biến
chứng trong và sau mổ. Trong thời gian theo dõi từ 1 tuần đến 1 tháng, chúng tôi cũng không gặp bất kỳ biến
chứng nào liên quan đến cuộc mổ cắt túi mật.
Kết luận: Cắt túi mật qua ngã nội soi với 1 đường rạch da qua rốn, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội soi
thường dùng tại bệnh viện là an toàn, hiệu quả, và là chọn lựa cho những phẫu thuật viên đã quen thuộc với
phẫu thuật nội soi với 2 trocar.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi cắt túi mật với 2 trocar một vết mổ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 26
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TÚI MẬT VỚI 2 TROCAR MỘT VẾT MỔ
Nguyễn Thanh Phong*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ngày nay, cắt túi mật qua nội soi ổ bụng được coi là tiêu chuẩn vàng trong chọn lựa điều trị bệnh
lý túi mật tại các bệnh viện. Có nhiều nghiên cứu sử dụng 1 trocar rốn để cắt túi mật nhưng hầu hết các nghiên
cứu này đều sử dụng một trocar rốn có nhiều kênh thao tác và dụng cụ phẫu thuật chuyên biệt không hiện có tại
các bệnh viện. Chúng tôi giới thiệu kết quả bước đầu phương pháp cắt túi mật qua ngã nội soi ổ bụng, sử dụng 2
trocar qua 1 đường rạch da ở rốn với những dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng để cắt túi mật nhằm đánh
giá tính khả thi của phương pháp này.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật cắt túi mật qua ngã nội soi ổ
bụng, sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn so với cắt túi mật nội soi kinh điển với
3 trocar.
Đối tượng- Phương pháp: Từ tháng 8/2010 đến tháng 9/2011, chúng tôi thực hiện 19 trường hợp cắt túi
mật qua ngã nội soi với 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn. Chúng tôi sử dụng 1 trocar 5mm và 1 trocar 10mm
đặt qua đường rạch da này, dùng kính soi 5mm và dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng tại bệnh viện, 2 nơ
chỉ treo ở đáy và phễu túi mật giúp bộc lộ rõ tam giác gan mật. Túi mật được cắt và lấy ra ngoài qua đường rạch
da ở rốn.
Kết quả: 19 trường hợp cắt túi mật qua ngã nội soi với 2 trocar, tuổi trung bình 49, thời gian mổ 68,2±40
phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 2 ngày. Có 3 trường hợp thêm trocar 5 mm hạ sườn phải để cầm
máu giường túi mật và dẫn lưu, không có trường hợp nào chuyển mổ mở. Chúng tôi không gặp tai biến hay biến
chứng trong và sau mổ. Trong thời gian theo dõi từ 1 tuần đến 1 tháng, chúng tôi cũng không gặp bất kỳ biến
chứng nào liên quan đến cuộc mổ cắt túi mật.
Kết luận: Cắt túi mật qua ngã nội soi với 1 đường rạch da qua rốn, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội soi
thường dùng tại bệnh viện là an toàn, hiệu quả, và là chọn lựa cho những phẫu thuật viên đã quen thuộc với
phẫu thuật nội soi với 2 trocar.
Từ khóa: Cắt túi mật qua nội soi, 2 trocar, 1 đường rạch da ở rốn.
ABSTRACT
TWO- PORT SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY (SILC)
Nguyen Thanh Phong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 26 - 31
Backgound: Laparoscopic cholecystectomy is a golden standard in the procedure of choice in all
gallbladder diseases at hospitals. Single- port laparoscopic cholecystectomy was applied in some hospitals
but it need specific port and laparoscopic instruments. We report our early results in laparoscopic
cholecystectomy using two trocars through a perumbilical single- incision and common laparoscopic
instruments.
The aim of the study: To evaluate the feasibility and safety of this technique.
Method: From August 2010 to September 2011, we performed 19 two-port single incision laparoscopic
cholecystectomy. In our technique, after establishing umbilical trocar (10mm), inflating abdominal cavity
Bộ môn Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thanh Phong. ĐT: 0903643310 E-mail: phongy89@yahoo.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 27
with carbon dioxide, a 45° scope was inserted, and a second trocar (5mm) was positioned to right of the first
trocar. Then two stitches with absorbable sutures were passed: one at the fundus to pull up the gallbladder,
and the second through the neck of the gallbladder to expose the structure of the Calot triangle.
Cholecystectomy was performed and the gallbladder was extracted through the umbilical port.
Results: nineteen cases of two-trocar single- incision laparoscopic cholecystectomy have been performed.
The median age was 49 years (range, 27- 79). The average operating time was 68.2 minutes (range, 30-
180) and the median hospital stay was 2 days. Three cases need additional 5mm trocar to control bleeding
on the gallbladder bed and drain. There was no conversion to laparatomy. Mortality and morbidity rate are
0. During follow up time (from 1 week to 1 month), no problem related to the operation was reported.
Conclusion: Two-port single incision cholecystectomy is technically feasible, safe and may further
improve the surgical outcomes in terms of postoperative pain and cosmetic. It can be considered as a routine
practice by surgeons who are familiar with laparoscopic surgery.
Key words: Laparoscopic cholecystectomy, two-port single incision.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt túi mật nội soi được Philippe Mouret
tiến hành đầu tiên tại Pháp vào 1987, cho đến
nay đó là một tiêu chuẩn vàng để điều trị bệnh
lý túi mật tại các bệnh viện. Nhiều kỹ thuật cắt
túi mật nội soi đã phát triển dựa trên kỹ thuật 3,
4 trocar này.
Cắt túi mật nội soi 1 đường mổ (SILC) ngày
càng phổ biến trên thế giới vì đây là phương
pháp ít xâm hại và là phẫu thuật không thấy sẹo
mổ. Nhiều phương pháp phẫu thuật SILC khác
nhau đã được áp dụng tại các bệnh viện. Vì vậy,
cần phải nghiên cứu một phương pháp chuẩn
để chúng ta có thể tiến hành an toàn cũng giống
như cắt túi mật nội soi 3, 4 trocar từ trước
đến nay.
Kinh nghiệm SILC tại bệnh viện Bình Dân
bắt đầu bằng việc sử dụng dụng cụ nội soi
chuyên dùng là Triport, và thay đổi từ 3 trocar
với 1 đường rạch da qua rốn(3) thành 2 trocar để
giải quyết một số hạn chế của phương pháp
này.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của
phẫu thuật cắt túi mật qua ngã nội soi ổ bụng,
sử dụng 1 đường rạch da qua rốn với 2 trocar so
với cắt túi mật nội soi kinh điển với 3 trocar.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả trường hợp có chỉ định cắt túi mật
được chẩn đoán và chấp nhận phẫu thuật bằng
phương pháp mổ nội soi cắt túi mật với chỉ một
lỗ vào ổ bụng tại khoa hồi sức cấp cứu Bệnh
viện Bình Dân từ tháng 8/2010 đến 9/2011.
Xét nghiệm chức năng gan trong giới hạn
bình thường, không dãn đường mật trong và
ngoài gan và không sỏi đường mật chính trên
siêu âm.
Tình trạng toàn thân của bệnh nhân không
có chống chỉ định phẫu thuật nội soi.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu thực nghiệm lâm sàng.
Dụng cụ
Kính nội soi 5mm 45.
Các dụng cụ nội soi cắt túi mật thường dùng
tại bệnh viện.
Thao tác thực hành
Kỹ thuật mổ: gồm 5 bước.
Bước 1: Bố trí phòng mổ.
Màn hình, nguồn sáng, bơm hơi và đốt điện
bên phải bàn mổ. Bệnh nhân nằm đầu cao
nghiêng T, phẫu thuật viên bên trái và phụ mổ
bên phải bàn mổ. Phẫu thuật viên điều khiển
camera 5mm bằng tay T và tay P điều khiển
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 28
dụng cụ nội soi như grasper, móc đốt, kéo, kẹp
clip.
Bước 2: Đường rạch da qua rốn dài 2 cm.
Tất cả 2 trocar được đặt qua đường rạch
da này.
Bước 3: Đặt trocar
Trocar đầu tiên 10mm bơm hơi khí CO2 với
áp lực 10 -15 mm Hg.Trocar 5mm cạnh phải
trocar 10mm đầu tiên, với sự quan sát của kính
soi để giảm nguy cơ tổn thương tạng trong
phúc mạc.
Bước 4: Cắt túi mật.
Bước đầu tiên là treo đáy túi mật lên thành
bụng ở sườn P. Đây là thao tác khá quan trọng:
dùng kim Vicryl 1 uốn thành kim thẳng (vì là
kim lớn nên khâu qua da sẽ dễ dàng), sau đó
đâm vào bụng ở đường trung đòn khoan liên
sườn 8. Đáy túi mật được treo lên thành bụng.
Kế tiếp dùng chính kim này đâm vào ổ bụng ở
vị trí thường đặt trocar ở hạ sườn P để treo cổ
túi mật. Kéo chỉ căng cổ túi mật nhẹ nhàng
thuận lợi cho việc bóc tách bộc lộ tam giác gan
mật. Bóc tách bộc lộ tam giác gan mật, sau khi
xác định đúng chính xác động mạch túi mật và
ống túi mật. Kẹp 2 clip sát gốc động mạch túi
mật. Cắt đốt động mạch túi mật. Dùng 2 clip để
kẹp đầu gần và 1 clip để kẹp phần xa ống túi
mật, cắt ống túi mật giữa 3 clip. Cắt giường túi
mật và lấy ra ngoài qua trocar 10mm. Có thể bỏ
túi mật vào bao trong trường hợp túi mật to
hoại tử nhiều sỏi nhỏ có nguy cơ rơi vãi trong ổ
bụng khi lấy ra ngoài. Lau kỹ rãnh Morison phải
là quan trọng để ngừa biến chứng tụ dịch nhiễm
khuẩn sau cắt túi mật. Không cần đặt dẫn lưu.
Bước 5: Đóng vết mổ
Đóng vết mổ thì đơn giản, dùng 1 mũi khâu
vicryl 1 đóng lỗ trocar 10 mm. May da.
KẾT QUẢ
Từ tháng 8/2010 đến tháng 9/2011 tại khoa
hồi sức cấp cứu Bệnh viện Bình Dân, chúng tôi
thực hiện cắt túi mật qua nội soi ổ bụng sử dụng
1 đường rạch da qua rốn với 2 trocar và các
dụng cụ phẫu thuật nội soi dùng để cắt túi mật
cho 19 trường hợp.
Có 3 nam (16,6%) và 16 nữ (84,2%), trung
bình là 49 tuổi (27‐79), tất cả túi mật sau mổ đều
được gửi giải phẫu bệnh.
Bảng 1. Thời gian phẫu thuật và thời gian
nằm viện.
Thời gian Trung bình Ngắn nhất Lâu nhất
Phẫu thuật (phút) 68,2 30 180
Nằm viện (ngày) 2 1 5
Bảng 2. Chẩn đoán sau mổ.
Chẩn đoán Bệnh nhân Tỉ lệ (%)
Viêm túi mật sỏi kẹt cổ 6 31,5
Sỏi túi mật có triệu chứng 11 57,8
Polyp túi mật 1 5,2
Viêm túi mật không sỏi 1 5,2
Không có trường hợp nào chuyển mổ mở.
1 trường hợp thêm trocar hạ sườn phải để
giúp cầm máu giường túi mật.
2 trường hợp thêm trocar để đặt dẫn lưu sau
mổ do thủng túi mật khi cắt giường túi mật.
Không có biến chứng hay tử vong.
BÀN LUẬN
Chọn đường vào ổ bụng qua 1 đường rạch
da rốn
Phẫu thuật nội soi cắt túi mật với 1 đường
rạch da là kỹ thuật mới, qua một đường rạch da
này các trocar và dụng cụ nội soi được đưa vào
ổ bụng để cắt túi mật, chúng tôi chọn đường
vào ổ bụng qua rốn vì:
Là lỗ tự nhiên của cơ thể, nơi mỏng nhất để
vào ổ bụng và không thấy sẹo mổ.
Tránh được những biến chứng do tổn
thương động mạch thượng vị dưới hoặc các
nhánh khác cấp máu cho thành bụng và tổn
thương bàng quang nếu đặt trocar vùng hạ vị.
Có thể mở rộng vết mổ để lấy túi mật trong
trường hợp khó với ít nguy cơ chảy máu và tổn
thương thành bụng nhất.
Dùng 2 trocar
Ngày nay cắt túi mật nội soi là tiêu chuẩn
vàng trong điều trị bệnh túi mật tại khắp nơi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 29
trên thế giới. Phẫu thật được tiến hành bằng
cách dùng 3 hay 4 trocar để vào ổ bụng(13).
Một trong những tiến bộ gần đây là phẫu
thuật nội soi với khuynh hướng giảm kích thước
và số lỗ trocar để đạt mục đích phẫu thuật ít
xâm hại. Về cơ bản là đưa tất cả dụng cụ phẫu
thuật nội soi vào ổ bụng qua một đường mổ ở
rốn qua một dụng cụ gọi là TriPort(11). Tuy nhiên
phương pháp này cần phải có những dụng cụ
chuyên biệt không thường có tại các bệnh viện
hiện nay.
Vài trung tâm phẫu thuật nội soi trong nước
đang nghiên cứu cắt túi mật nội soi qua 1 đường
rạch da qua rốn dùng 3 trocar. Tại bệnh viện
Chợ Rẫy có 1 nghiên cứu cắt túi mật nội soi sử
dụng dụng cụ đặc biệt qua 1 đường rạch da qua
rốn(8).
Tuy nhiên khó khăn chung nhất khi áp dụng
các phương pháp này là phẫu trường tam giác
quen thuộc của các phẫu thuật viên nội soi
không còn, hạn chế sự linh hoạt của các dụng cụ
nội soi và người cầm camera, dụng cụ nội soi và
kính soi phải thao tác trong phẫu trường bên
trong và bên ngoài hạn chế, việc di chuyển của
camera có thể làm di chuyển vô ý của dụng cụ
nội soi nằm sát bên, điều này có thể làm tăng
khó khăn khi tiến hành các thao tác tương đối
đơn giản như cần phải quan sát các cấu trúc hay
tạng lân cận khi tiến hành cắt túi mật. Sự va
chạm của dụng cụ nội soi và scope giữa phẫu
thuật viên và người phụ mổ cũng không thể
tránh khỏi.
Cắt túi mật nội soi sử dụng 2 trocar là an
toàn và dễ thực hiện đã được báo cáo trong y
văn(12). Cắt túi mật nội soi sử dụng 2 trocar với 1
đường rạch da qua rốn thì chưa thấy có báo cáo
nào.
Trước khi tiến hành phẫu thuật cắt túi mật
nội soi 1 đường mổ rốn với 2 trocar chúng tôi đã
mổ thành thục cắt ruột thừa nội soi 1 đường mổ
với 2 trocar.
Bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận với các
tiêu chuẩn như: tuổi, triệu chứng lâm sàng, tình
trạng toàn thân, tiền sử, bệnh nhân viêm túi mật
có biến chứng thì lọai khỏi nghiên cứu này. Kể
từ ca đầu tiên, cắt túi mật nội soi 1 đường mổ
rốn với 2 trocar trải qua nhiều biến cải, một số
thao tác vẫn tiếp tục sử dụng trong khi các thao
tác phẫu thuật khác được thay đổi từ kinh
nghiệm thực tế của chúng tôi.
Thời gian mổ
Thời gian (phút) Trung bình Ngắn nhất Dài nhất
Steven
(2)
149,5 99 240
Sang Chul Lee
(10)
110
Xiaodong Han
(5)
69 45 115
Xu Jun
(7)
56 26 170
Lê Công Khánh
(8)
52 25 95
Bùi Mạnh Côn
(3)
60
Chúng tôi 68,2 30 180
Thời gian mổ của chúng tôi có ngắn hơn các
tác giả khác do chúng tôi chỉ sử dụng có 2
trocar, phẫu thuật viên cũng là người cầm
camera nên tránh được những hạn chế do sử
dụng 3 trocar như:
Phẫu thuật viên được thao tác trong phẫu
trường quen thuộc.
Dụng cụ nội soi và kính soi được thao tác
trong phẫu trường bên trong và bên ngoài
không hạn chế.
Camera di chuyển theo ý muốn của phẫu
thuật viên.
Không còn việc đụng chạm của dụng cụ nội
soi và camera, giữa phẫu thuật viên và người
phụ mổ.
Thời gian nằm viện
Thời gian (ngày) Trung bình Ngắn nhất Dài nhất
Steven(2) 0,36 1 2
Sang Chul Lee(10) 2
Xiaodong Han(5) 1,7 1 3
Xu Jun(7) 3 1 5
Lê Công Khánh
(8)
<2
Bùi Mạnh Côn
(3)
1-2
Chúng tôi 2 1 5
Thời gian nằm viện của bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi tương tự như các tác
giả khác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 30
Tai biến, biến chứng
Chảy dịch mật khi treo túi mật lên thành
bụng: trong quá trình dùng chỉ treo túi mật lên
thành bụng có thể gây chảy mật vào ổ bụng
nhưng nếu hút rửa và lau sạch thì không ảnh
hưởng đến kết quả điều trị, không làm tăng tỉ lệ
nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm khuẩn ổ bụng hay
tỉ lệ tử vong, bởi vì dịch mật thì vô khuẩn và
dần dần sẽ được phúc mạc hấp thu(6,14).
Chúng tôi có 2 (10,5%) trường hợp thủng túi
mật khi cắt giường túi mật, chảy dịch mật vào ổ
bụng nhưng sau khi hút rửa, lau sạch và đặt dẫn
lưu thì không có biến chứng hậu phẫu.
Sự thành công của phẫu thuật nội soi cắt túi
mật ngày càng được nhiều phẫu thuật viên chấp
nhận và đã góp phần làm giảm đáng kể ti lệ
nhiễm khuẩn vết mổ, thoát vị thành bụng và
biến chứng hô hấp(14). Tuy nhiên bên cạnh đó
phẫu thuật nội soi cắt túi mật cũng có thiếu sót
như tổn thương đường mật, và nhiều tổn
thương liên quan đến trocar(14). Vì vậy việc giảm
số trocar sẽ làm giảm biến chứng liên quan đến
trocar.
Trong nghiên cứu của chúng tôi bước đầu
với số lượng tương đối ít bệnh nhân chưa có tai
biến hay biến chứng trong mổ, tuy nhiên khi số
lượng bệnh nhân ngày càng tăng các biến chứng
tiềm tàng có thể xảy ra. Vì vậy tính an toàn của
phẫu thuật cắt túi mật nội soi 1 đường mổ qua
rốn với 2 trocar cần phải tiếp tục theo dõi thêm.
Hiệu quả
Trong kỹ nguyên phẫu thuật ít xâm hại, hiệu
quả điều trị không chỉ dựa vào tính an toàn mà
còn là chất lượng điều trị mà điều này thường
được xác định dựa vào kết quả giảm đau sau mổ
và sẹo mổ thẩm mỹ. Phẫu thuật không sẹo mổ
đã đáp ứng được cả 2 yêu cầu này. Phẫu thuật ít
xâm hại ngày càng phát triển bởi vì kỹ thuật mổ
và dụng cụ mổ ngày càng hoàn thiện nên những
kỹ thuật mổ phức tạp có thể tiến hành theo cách
thức ít xâm hại.
Giảm đau hậu phẫu sau mổ cắt túi mật nội
soi 1 đường mổ qua rốn theo Steven(2) có thể do
giảm số trocar dẫn tới giảm đau và sẹo mổ rất
thẩm mỹ ngay cả bệnh nhân cũng cảm thấy hài
lòng. Cắt túi mật nội soi 2 trocar đã đem lại sự
hài lòng cao của bệnh nhân(12). Nghiên cứu ngẫu
nhiên đánh giá đau sau mổ trên bệnh nhân cắt
túi mật kinh điển 3 hay 4 trocar cho thấy ít dùng
thuốc giảm đau ở nhóm sử dụng ít trocar hơn(9).
Khi sử dụng Triport thì sẹo mổ ở rốn thì dài
hơn (25mm) so với sẹo mổ 2 trocar của chúng tôi
(15-20 mm) hơn nữa trong trường hợp lỗ rốn
nông thì sẹo có thể dài hơn nữa(4).
Về mặt thẩm mỹ cắt túi mật nội soi 1 đường
mổ qua rốn với 2 trocar chỉ cần 1 đường mổ qua
rốn dài 2 cm ngắn hơn phải dùng Triport hay
đường mổ với 3 trocar qua rốn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù
đường rạch da 2cm nhưng đường rạch cân cơ
thì ngắn hơn nhiều để cân cơ thành bụng bao
kín trocar tránh rò khí trong quá trình phẫu
thuật và vì thế đường rạch này cũng tránh làm
tăng nguy cơ thoát vị thành bụng.
Một nghiên cứu cắt túi mật nội soi dùng 2
trocar đã cho thấy tất cả bệnh nhân sẽ chọn
phương pháp này thay vì 3,4 trocar do giảm đau
đáng kể sau mổ và bệnh nhân dễ chấp nhận vì
thẩm mỹ hơn(1,9). Tương tự trong nghiên cứu của
chúng tôi bệnh nhân giảm đau đáng kể sau mổ
và tính thẩm mỹ thì bệnh nhân dễ chấp nhận
hơn. Phẫu thuật nội soi với 2 trocar thì an toàn
và dễ thực hiện nhưng là một kỹ thuật khó đòi
hỏi phải có kinh nghiệm phẫu thuật một
đường mổ.
KẾT LUẬN
Cắt túi mật qua ngã nội soi với 1 đường rạch
da qua rốn, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội
soi thường dùng tại bệnh viện là an toàn, hiệu
quả, và là chọn lựa cho những phẫu thuật viên
đã quen thuộc với phẫu thuật nội soi với 2
trocar.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Balagué C, Tartagarona E, Trias M (2000). Cirugía Laparoscópica
e Infección Quirúrgica. Rev. Esp. de Cir, 67: 184 – 191.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 31
2. Binenbaum SJ et al (2009). Single-Incision Laparoscopic
Cholecystectomy Using a Flexible Endoscope. Arch Surg, (8):
734-738.
3. Bùi mạnh Côn, Lê Quang Nghĩa, Lương Thanh Tùng (2010).
Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một vết mổ vào ổ bụng
(LESS- LAPAROENDOSCOPIC SINGLE-SITE SURGERY).
Ngoại khoa, 4: 133-9.
4. Cuesta MA, Berends F (2008). The “invisible cholecystectomy”:
a transumbilical laparoscopic operation without a scar. Surgical
Endoscopy, 22(5): 1211–1213.
5. Han X, Zhong J (2010). Trans-umbilical single-port laparoscopic
cholecystectomy using conventional laparoscopic
instrumentation. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam 2010: 243- 244.
6. Jones DB, Dunnegan DL (1995). The influence of
intraoperative gallbladder perforation on long-term outcome
after laparoscopic cholecystectomy. Surg Endosc, 9: 977-980.
7. Jun X, Zhifei W (2010). Single incision laparoscopic
cholecystectomy using a novel laparoscopic instrument with
adjustable and rotatable wrist. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam
2010: 243- 244.
8. Lê Công Khánh, Trần Đình Minh Tú,Nguyễn Bảo Xuân Thanh
(2010). Cắt túi mật nội soi một trocar với kính nội soi phẫu thuật
ngọai khoa. Y học Việt Nam, 60: 7- 12.
9. Lee K, Poon C, Leung K (2005). Two-port needlescopic
cholecystectomy: prospective study in 100 cases. Hong Kong
Med J, 11: 30–35.
10. Lee SC, Kim HJ, Cho H (2010). Single port laparoscopic (SPLS)
cholecystectomy in the status of previous SPLS-APR: report of 1
case. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam: 236.
11. Navarra G, Pozza E, Occhionorelli S, (1997). One-wound laparo-
scopic cholecystectomy. Br J Surg, 84(5): 695.
12. Ng W, Kong C, Wong Y (1997). One-wound laparoscopic
cholecystectomy. Br J Surg, 84: 1627.
13. Poon C, Chan K, Lee D, Chan K (2003). Two-port vs four-port
laparascopic cholecystectomy: A prospective randomized
controlled trial. Surg Endosc, 17: 1624–1627.
14. Soper N, Dunnegan D (1991). Does intraoperative gall- bladder
perforation influence the early outcome of laparoscopic
cholecystectomy. Surg Laparosc Endosc, 1: 156-161.