Đặt vấn đề: GOLD2014khuyến cáo đánh giá triệu chứng lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(BPTNMT)bằng cách dùng 1 trong ba thang điểm mMRC, CAT hoặc CCQ với các điểm cắt tương ứng là 2, 10
và 1 – 1,5. GOLD không nêu rõ điểm số ưu tiên.Chứng cứcho thấy sử dụng thang điểm CAT hoặc mMRC dẫn
đến hai kết quả phân loại khác nhau.
Mục tiêu: So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trongđánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả phân tích trên 151 bệnh nhân BPTNMT tại
phòng khám hô hấp BVĐHYD từ 01/2009–01/2011. Chúng tôi xác định hệ số tương quan giữa mMRC và CCQ
lần lượt với mức độ khó thở (BDI), khả năng gắng sức (6MWD), chất lượng cuộc sống (SGRQ).Hai phương
trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và CCQ với SGRQ cho phép tính điểm cắt tương ứng của mMRC và
CCQ.
Kết quả: Hệ số tương quan giữa mMRC với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,74; – 0,50 và 0,64 (p < 0,01).
Hệ số tương quan giữa CCQ với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,70; – 0,47 và 0,73 (p < 0,01). Điểm cắt phân biệt
triệu chứng ít hay nhiềucủa CCQ và mMRC đều bằng 1.
Kết luận: Để đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT, CCQ có giá trị đại diện tốt hơn mMRC. Điểm cắt
phân biệt triệu triệu chứng ít hay nhiều của mMRCvà CCQ đều bằng 1.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trong đánh giá triệu chứng lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 541
SO SÁNH GIÁ TRỊ ĐIỂM mMRC VÀ CCQ TRONG ĐÁNH GIÁ
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Lê Khắc Bảo*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: GOLD2014khuyến cáo đánh giá triệu chứng lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(BPTNMT)bằng cách dùng 1 trong ba thang điểm mMRC, CAT hoặc CCQ với các điểm cắt tương ứng là 2, 10
và 1 – 1,5. GOLD không nêu rõ điểm số ưu tiên.Chứng cứcho thấy sử dụng thang điểm CAT hoặc mMRC dẫn
đến hai kết quả phân loại khác nhau.
Mục tiêu: So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trongđánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả phân tích trên 151 bệnh nhân BPTNMT tại
phòng khám hô hấp BVĐHYD từ 01/2009–01/2011. Chúng tôi xác định hệ số tương quan giữa mMRC và CCQ
lần lượt với mức độ khó thở (BDI), khả năng gắng sức (6MWD), chất lượng cuộc sống (SGRQ).Hai phương
trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và CCQ với SGRQ cho phép tính điểm cắt tương ứng của mMRC và
CCQ.
Kết quả: Hệ số tương quan giữa mMRC với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,74; – 0,50 và 0,64 (p < 0,01).
Hệ số tương quan giữa CCQ với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,70; – 0,47 và 0,73 (p < 0,01). Điểm cắt phân biệt
triệu chứng ít hay nhiềucủa CCQ và mMRC đều bằng 1.
Kết luận: Để đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT, CCQ có giá trị đại diện tốt hơn mMRC. Điểm cắt
phân biệt triệu triệu chứng ít hay nhiều của mMRCvà CCQ đều bằng 1.
Từ khóa: Khó thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống, BPTNMT.
ABSTRACT
COMPARISON VALUE OF mMRC AND CCQ FORSYMPTOM ASSESSMENT IN CHRONIC
OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE
Le Khac Bao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 541 - 548
Background: GOLD 2014 recommends the assessment of symptoms in chronic obstructive pulmonary
disease (COPD) using either one of three scales: mMRC, CAT or CCQ. Their respective cut-off points are 2, 10
and 1 – 1.5. GOLD has not mentioned the preferred scale. Evidence shows that the use of CAT or mMRC leads to
two different classification results.
Methodology: A descriptive cross sectional study was conducted on 151 patients with COPD at outpatient
respiratory department of Medical University Center at HCMC from Jan 2009 to Jan 2011.We find the
correlation ratios between mMRC and CCQ with dyspnea severity (BDI), exercise capacity (6MWD), quality of
life (SGRQ). The two linear regression equations between mMRC and CCQ with SGRQ allow calculating the
respective cut–off points for mMRC and CCQ.
Results: The correlation ratios between mMRC with BDI, 6MWD and SGRQ are – 0.74; – 0.50 and
0.64 respectively (p < 0.01). The correlation ratios between CCQ with BDI, 6MWD and SGRQ are – 0.70; –
0.47 and 0.73 respectively (p < 0.01). The cut–off points to differentiate more and less symptoms of both
mMRC and CCQ are 1.
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Khắc Bảo ĐT: 0908.888.702 Email: baolekhac@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 542
Conclusion: To assess symptoms in COPD, CCQ has a higher representative value than mMRC. The cut–
off points to differentiate more and less symptoms of both mMRC and CCQ are 1.
Key words: dyspnea, exercise capacity, quality of life, COPD.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2011, GOLD thay đổi khuyến cáo đánh
giá lâm sàng BPTNMT từ dựa trên một thành
phần sang nhiều thành phần: triệu chứng lâm
sàng, tiền căn đợt cấp, chức năng hô hấp8). Để
đánh giá thành phần triệu chứng lâm sàng,
GOLD 2014 khuyến cáo dùng 1 trong 3 thang
điểm mMRC, CAT hoặc CCQ nhưng lại không
xác định rõ nên ưu tiên dùng thang điểm nào9).
Paul Jones thấy rằng khi lấy điểm SGRQ làm
mốc, điểm cắt mMRC = 2 không tương đương
với điểm cắt CAT = 10 trong phân loại bệnh
nhân thành nhóm ít và nhiều triệu
chứng(12).Sunmin Kim nhận thấy thay đổi tiêu
chí phân loại từ mMRC sang CAT đã làm số
bệnh nhân được phân vào nhóm nhiều triệu
chứng (nhóm B, D) tăng đáng kể(16). Kết quả
nghiên cứu của Summin Kim cũng lập lại trên
nghiên cứu của Ciro Casanova(5)và củaDavid
Price(27). David Price thấy thay đổi tiêu chí phân
loại từ mMRC sang CAT làm thay đổi phân loại
của 53,6% bệnh nhân, trong số đó 99,6% chuyển
từ nhóm ít triệu chứng (nhóm A, C) sang nhóm
nhiều triệu chứng (nhóm B, D)(27). GOLD 2014
cũng thừa nhận điểm cắt CCQ = 1 – 1,5 là áp đặt
vì thiếu chứng cứ(9).
Nghiên cứu tương quan giữa các thang điểm
đại diện với các biến số đánh giá triệu chứng lâm
sàng BPTNMT cho phép xác định được thang
điểm ưu tiên đồng thời xác định được điểm cắt
chính xác cho từng thang điểm. Vì thế chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu: “So sánh giá trị
điểm mMRC và CCQ trong đánh giá triệu chứng
lâm sàng BPTNMT”.
Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quát
So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trong
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Chuyên biệt
Xác định hệ số tương quan giữa mMRC và
CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ trong
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Xác định phương trình hồi qui tuyến tính
giữa mMRC và CCQ với SGRQ và tính điểm cắt
của mMRC và CCQ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân BPTNMT tại Tp.HCM và các tỉnh
lân cận đến khám tại phòng khám hô hấp
BV.ĐHYD Tp.HCM từ tháng 01/2009 – 01/2011.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Bệnh nhân thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn
chọn bệnh:
Nam hoặc nữ tuổi ≥ 40
-Có ≥ 1 triệu chứng lâm sàng chỉ điểm
BPTNMT:
Khó thở khi gắng sức, dai dẳng, tiến triển
nặng dần hàng tháng hay hàng năm.
Ho, khạc đàm kéo dài ≥ 3 tuần.
-Tiền căn tiếp xúc yếu tố nguy cơ:
Đã từng hay đang hút thuốc lá ≥ 10 gói.năm
và / hoặc
Đã từng hay đang tiếp xúc chất đốt sinh khối
(biomass) ≥ 10 giờ.năm.
FEV1/FVC sau trắc nghiệm giãn phế quản <
0,7.
Tiêu chuẩn loại bệnh
Bệnh nhân vi phạm ít nhất một tiêu chuẩn
loại bệnh:
-Tiền căn bệnh lý:
Hen suyễn, dãn phế quản, ung thư phế
quản, lao phổi, bệnh phổi mô kẽ, cắt thùy phổi,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 543
thuyên tắc phổi, tràn dịch màng phổi, tràn khí
màng phổi, gù vẹo cột sống.
Suy tim trái, đau thắt ngực không ổn định
hoặc nhồi máu cơ tim một tháng trước đó, tai
biến mạch máu não.
Di chứng sốt bại liệt, chấn thương gãy xương
chi dưới, đoạn chi dưới, biến dạng khớp do viêm
khớp, suy tĩnh mạch chi dưới.
-Tình trạng lúc khám:
Không hiểu tiếng Việt để trả lời các bộ câu
hỏi: mMRC, BDI, CCQ, SGRQ.
Nhịp tim> 120 lần/phút, huyết áp > 180/100
mmHg. Không thể hợp tác đo 6MWT.
Có chống chỉ định đo phế thân ký (7,21) hoặc
không thể hợp tác đo phế thân ký.
-Các xét nghiệm hỗ trợ:
X quang ± CT scan: lao phổi, dãn phế quản,
u phổi, bệnh phổi mô kẽ, tràn khí / dịch màng
phổi.
Soi đàm: trực trùng kháng cồn acid.
Điện tâm đồ ± siêu âm tim: rối loạn nhịp,
thiếu máu cơ tim, suy tim.
Các biến số nghiên cứu
Đặc điểm dân số học
Tuổi – Giới – Chiều cao – Cân nặng.
Tình trạng hút thuốc lá hiện tại.
Tiền căn hút thuốc lá ± tiếp xúc chất đốt sinh
khối.
Tiền căn đợt cấp BPTNMT: số đợt cấp trong
12 tháng trước đó.
Triệu chứng lâm sàng
Mức độ khó thở đánh giá với bộ câu hỏi
mMRC (20) và BDI (19).
Khả năng gắng sức đánh giá với khoảng
cách đi bộ sáu phút 6MWD (2).
Chất lượng cuộc sống đánh giá với bộ câu
hỏi CCQ và SGRQ (9).
Chức năng hô hấp
Đánh giá với máy phế thân kế của hãng
CareFusion (Hoa Kỳ):
Tắc nghẽn luồng khí đánh giá với % FEV1 so
với dự đoán, tỷ lệ FEV1/ FVC.
Tăng kháng lực đường thở đánh giá với %
sGaw so với dự đoán.
Ứ khí phế nang đánh giá với % FRC so với
dự đoán, tỷ lệ RV/TLC.
Cách đánh giá các biến số nghiên cứu
Bệnh nhân tự đọc và trả lời câu hỏi mMRC,
SGRQ, CCQ. Nếu bệnh nhân không tự đọc
được, bác sỹ sẽ đọc to cho bệnh nhân nghe,
không giải thích thêm. Bệnh nhân không mang
bộ câu hỏi về nhà trả lời, người thân đi kèm
không được giải thích khibệnh nhân trả lời câu
hỏi.Đối với bộ câu hỏi BDI: bác sỹ hỏi và cho
điểm. Một bác sỹ hỏi, cho điểm BDI trong suốt
nghiên cứu để tránh biến thiên giữa hai người
đánh giá.Trình tự trả lời mMRC, CCQ, SGRQ và
cho điểm BDI, được thay đổi ngẫu nhiên để
tránh kết quả trả lời bị tác động qua lại khi trả lời
liên tiếp các bộ câu hỏi.
Trắc nghiệm đi bộ sáu phút (6MWT)được
thực hiện trên một hành lang dài 40 m, lót gạch
20x20 cm. Hai bên hành lang, mỗi 5 m có một
vạch đánh dấu giúp tính khoảng cách đi. Hai
ghế nhựa được đặt ở hai đầu hành lang để đánh
dấu vị trí quanh lại. Qui trình thực hiện và ghi
nhận kết quả của 6MWT tuân thủ hướng dẫn
ATS 2002(2).
Phân tích thống kê
Phần mềm SPSS 15.0 được sử dụng để lưu
trữ và xử lý dữ liệu.
Phân tích tương quan đơn biến giữa mMRC
và CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 544
Vẽ biểu đồ tương quan đơn biến giữa
mMRC và CCQ với SGRQ, qua đó xác định
phương trình hồi qui tuyến tính và điểm cắt
của mMRC và CCQ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dân số nghiên cứu
174 bệnh nhân đồng ý tham gia.23 bệnh
nhân có tiêu chuẩn loại gồm:9 lao phổi, 4 gù
vẹo, 3 dãn phế quản, 2 suy tim, 5 không thể đo
phế thân ký. Cuối cùng,151 bệnh nhân được
thu dung.
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu
Đặc điểm dân số học (n = 151) Triệu chứng &chức năng phổi (n = 151)
Tuổi 66 ± 11 Mức độ khó thở
Giới nam, n (%) 140 (93) mMRC 1,8 ± 1,1
BMI, kg/m
2
21 ± 5 BDI 6,5 ± 2,7
Tình trạng hút thuốc lá Khả năng gắng sức
Đang hút, n (%) 65 (43) 6MWD (m) 476 ± 114
Đã cai, n (%) 76 (50) Chất lượng cuộc sống
Không hút thuốc lá, n (%) 10 (7) SGRQ 51 ± 18
Tiền căn hút thuốc lá CCQ 1,8 ± 1,0
Tuổi bắt đầu hút thuốc lá 19 ± 5 Tắc nghẽn luồng khí
Số gói.năm 43 ± 22 Post FEV1 (% dự đoán) 56 ± 20
Tiếp xúc chất đốt sinh khối, n (%) 129 (85) Post FEV1/FVC (%) 47 ± 12
Số đợt cấp 12 tháng trước Tăng kháng lực đường thở
0, n (%) 112 (74) Post sGaw (% dự đoán) 27 ± 14
1, n (%) 16 (11) Ứ khí phế nang
≥ 2, n (%) 23 (15) Post FRC (% dự đoán) 154 ± 80
mMRC: Điểm khó thở theo bộ mMRC. BDI: Điểm khó thở tính theo chỉ số BDI. SGRQ: Điểm chất lượng cuộc sống SGRQ.
CCQ: Điểm chất lượng cuộc sống CCQ. 6MWD: Khoảng cách đi bộ 6 phút. Post: Sau trắc nghiệm giãn phế quản
Hệ số tương quan giữa giữa mMRC và CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ
Bảng 2: Hệ số tương quan giữa mMRC, CCQ với BDI, 6MWD, SGRQ
n = 151 BDI 6MWD SGRQ
mMRC – 0,74 (p < 0,001) – 0,50(p < 0,001) 0,64(p < 0,001)
CCQ – 0,70 (p < 0,001) – 0,47(p < 0,001) 0,73(p < 0,001)
mMRC: Điểm khó thở theo bộ mMRC. BDI: Điểm khó thở tính theo chỉ số BDI. SGRQ: Điểm chất lượng cuộc sống SGRQ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 545
Phương trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và CCQ với SGRQ; Điểm cắt mMRC và CCQ
Biểu đồ 1: Tương quan mMRC và SGRQ. SGRQ:
Điểm chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi SGRQ.
mMRC: Điểm khó thở tính theo bộ câu hỏi khó thở mMRC.
Phương trình hồi qui tuyến tính: mMRC = 0,04 x SGRQ
Biểu đồ 2: Tương quan CCQ và SGRQ SGRQ: điểm
chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi SGRQ. CCQ:
điểm chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi CCQ.
Phương trình hồi qui tuyến tính: CCQ = 0,04 x SGRQ
Biểu đồ phân tán tương quan giữa mMRC
với SGRQ (Biểu đồ 1) giúp thành lập phương
trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và SGRQ.
Biểu đồ phân tán tương quan giữa CCQ với
SGRQ (Biểu đồ 2) giúp thành lập phương trình
hồi qui tuyến tính giữa CCQ và SGRQ.
Hai phương trình hồi qui tuyến tính giữa
mMRC, CCQ và SGRQ ở trên cho phép tính được
SGRQ = 25 tương đương CCQ = 1 và mMRC = 1.
SGRQ = 25 được dùng làm điểm mốc phân loại
BPTNMT thành nhóm ít hay nhiều triệu
chứng(23). Do vậy, CCQ = 1 hay mMRC = 1 cũng
có thể làm điểm cắt phân loại BPTNMT thành
nhóm ít hay nhiều triệu chứng.
BÀN LUẬN
Tương quan giữa mMRC với mức độ khó thở,
khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Bảng 3: Tương quan giữa mMRC với mức độ khó
thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Nghiên cứu
Cỡ
mẫu
Mức
độ khó
thở
Khả
năng
gắng
sức
Chất
lượng
cuộc
sống
Chhabra, S. K.
(6)
88 – 0,67
Camargo Lilia Azzi
(4)
50 – 0,60 – 0,51
Lonneke M Boer
(3)
128 – 0,41
Paul W Jones
(14)
2294 0,62
Nguyễn Ngọc Phương
Thư
(25)
169 0,51
Chúng tôi 151 – 0,74 – 0,50 0,64
Tất cả các hệ số tương quan đều có ý nghĩa thống kê với p <
0,01
Tương tự nghiên cứu của Camargo Lilia
Azzi(4) và Lonneke M Boer(3), chúng tôi xác
định tương quan cóý nghĩa thống kê mức độ
vừa giữa mMRC với khả năng gắng sức. Do
0.0
25.0
50.0
75.0
total SGRQ visit 1
0
1
2
3
4
MRC visit 1
MRC visit 1 = 0.04 * SGRQ_total_1
Linear Regression through the Origin
Đ
iể
m
m
M
R
C
Điểm SGRQ
Điểm SGRQ
Đ
iể
m
C
C
Q
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 546
hệsố tương quan ở mức vừa, Lonneke M Boer
kết luận mMRC không thểđại diện khả năng
gắng sức và đề nghị GOLD 2011 nêu rõ vấn đề
này(3). Tuy nhiên trên thực hành, 6MWT và
SWT không phải là luôn khả thi trong đánh giá
khả năng gắng sức(17).Trong bối cảnh đó, điểm
mMRC vẫn có thểđại diện đánh giá khả năng
gắng sức.Denis E. O’Donnell nêu mMRC như
thang đánh giá khả năng gắng sức quan trọng
ngoài 6MWT và SWT(26). Janwillem WH Kocks
khẳng định điểm mMRC và điểm CCQ chức
năng là phương tiện đánh giá khả năng gắng
sức tốt nhất trên lâm sàng(17).
Thang điểm SGRQ vẫn được xem là chuẩn
mực đểđánh giá triệu chứng lâm sàng tại các thử
nghiệm lâm sàng trong BPTNMT, điểm SGRQ =
25 được chứng minh là điểm cắt phân loại bệnh
nhân BPTNMT thành nhóm triệu chứng ít và
nhiều, trong đó SGRQ < 25 ít gặp trên bệnh nhân
BPTNMT, ngược lại SGRQ ≥ 25 ít gặp trên người
khỏe mạnh(1,23). Nghiên cứu chúng tôi xác định
SGRQ = 25 tương đương mMRC = 1 (Biểu đồ 1).
Khi dùng mMRC đại diện đánh giá triệu chứng
lâm sàng BPTNMT, điểm cắt phân loại thành
nhóm ít và nhiều triệu chứng nên là mMRC = 1
chứ không phải điểm cắt mMRC = 2 của
GOLD(8,9).
Điểm cắt mMRC = 2 do GOLD đề nghị thực
sự là chủđề cho nhiều tranh luận. Nghiên cứu của
Sunmin Kim trên 257 bệnh nhân BPTNMT cho
thấy thay đổi tiêu chí phân loại dựa trên mMRC
hay CAT làm thay đổi khá lớn kết quả phân
loại(16). Kết quả nghiên cứu này đã được khẳng
định một lần nữa trong nghiên cứu của David
Price trên 1659 bệnh nhân BPTNMT(27): thay đổi
tiêu chí phân loại dựa trên mMRC = 2 sang CAT
= 10 dẫn đến thay đổi phân loại của 890 (54%)
bệnh nhân, trong đó 99,7% đổi từ nhóm ít triệu
chứng (A/C) sang nhóm nhiều triệu chứng (B/D),
chỉ 0,3% đổi ngược từ nhóm nhiều triệu chứng
(B/D) sang ít triệu chứng(27). Điểm cắt mMRC = 2
dường như phân nhóm “dưới mức” trong khi đó
điểm cắt CAT = 10 phân nhóm “quá mức” triệu
chứng BPTNMT. Điều này dẫn đến nhu cầu phải
chọn lại điểm cắt mMRC và/hoặc CAT sao cho
phân loại dựa trên hai tiêu chí tương đồng. David
Price sử dụng thuật toán thống kê Kappa và
đường cong ROC đề nghịđiểm cắt CAT = 24 – 26
tương đương mMRC = 2(27), nghĩa là chấp nhận
CAT phân nhóm “quá mức” triệu chứng. Paul W
Jones, ngược lại, dựa trên phân tích tương hợp
giữa mMRC và CAT đề nghịđiểm cắt mMRC = 1
tương đương CAT = 10(12), nghĩa là chấp nhận
mMRC phân nhóm “dưới mức” triệu chứng.
Chúng tôi ủng hộđề nghị của Paul W Jones với lý
do là điểm cắt CAT = 10 đã được tính toán dựa
trên phương trình hồi qui tuyến tính: CAT = 1,54
+ 0,36 x SGRQ chứng minh CAT = 10 tương
đương SGRQ = 25, là điểm mốc phân loại bệnh
nhân thành nhóm ít hay nhiều triệu chứng(13).
Nói cách khác, điểm cắt mMRC = 2 đã phân
nhóm “dưới mức”, chứ không phải điểm cắt CAT
= 2 phân nhóm “quá mức” triệu chứng BPTNMT.
Tương quan đơn biến giữa CCQ với mức độ
khó thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc
sống
Bảng 4: Tương quan giữa CCQ với mức độ khó thở,
khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Nghiên cứu n
Mức độ
khó thở
Khả năng
gắng sức
Chất lượng
cuộc sống
Lonneke M
Boer
(6)
128 – 0,65 – 0,37 0,63
Thys van der
Molen
(35)
119 0,71
Björn
Ställberg
(29)
111 0,84
Chúng tôi 151 – 0,70 – 0,47 0,73
Tương tự nghiên cứu của các tác giả (3,29, 35),
nghiên cứu chúng tôi xác định CCQ tương quan
mạnh với mức độ khó thở và chất lượng cuộc
sống, nhưng chỉ tương quan vừa với khả năng
gắng sức. Như vậy, trên lý thuyết, CCQ có thể
đại diện đánh giá mức độ khó thở và chất lượng
cuộc sống, nhưng không thể đại diện đánh giá
khả năng gắng sức. Tuy nhiên trên thực hành,
cũng như mMRC(25,26), CCQ vẫn có thể được
dùng đại diện đánh giá khả năng gắng sức(17).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 547
Khi dùng CCQ làm đại diện đánh giá triệu
chứng lâm sàng BPTNMT, điểm cắt CCQ = 1 từ
nghiên cứu chúng tôi (Biểu đồ 2) cũng nằm
trong khoảng giá trị CCQ từ 1 – 1,5 do GOLD
2014 đề nghị(9). Trong phạm vi hiểu biết của
chúng tôi, hiện chưa có nhiều nghiên cứu công
bố về điểm cắt CCQ trong BPTNMT(15).
So sánh giữa mMRC và CCQ vềgiá trị đại
diện đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT,
nghiên cứu chúng tôi xác định điểm CCQ tương
quan mạnh với đồng thời chất lượng cuộc sống
và khó thở, tương quan vừa với khả năng gắng
sức, trong khi đó mMRC chỉ tương quan mạnh
với khó thở, tương quan vừa với chất lượng cuộc
sống và khả năng gắng sức (Bảng 2). Kết quả
này gợi ý khả năng đại diện đánh giá triệu
chứng lâm sàng BPTNMT của CCQ tốt hơn
mMRC.
Đề xuất này cũng phù hợp với suy luận
thông thường là CCQ bao gồm ba phần đánh giá
triệu chứng (ho, khó thở), chức năng và tâm
thần(35), mMRC chỉ đánh giá khó thở nên có thể
đánh giá sót các triệu chứng khác như ho, khạc
đàm(20). Khó thở là triệu chứng quan trọng
nhưng không phải là duy nhất trong BPTNMT,
ho kéo dài, khạc đàm thường là triệu chứng xuất
hiện đầu tiên, đồng thời là yếu tố tiên lượng đợt
cấp, nhập viện và tiến triển nặng hơn của
BPTNMT(34). Hiện nay, SGRQ là thước đo đánh
giá triệu chứng lâm sàng tin cậy vì có đề cập
nhiều khía cạnh khác nhau trong BPTNMT(9).
Nghiên cứu chúng tôi xác định SGRQ tương
quan mạnh với CCQ nhưng chỉ tương quan vừa
với mMRC (Bảng 2).Nghiên cứu của các tác giả
khác cũng xác định tương quan mạnh giữa CCQ
và SGRQ(29,35) và ủng hộ đề xuất dùng CCQ thay
SGRQ đánh giá chất lượng cuộc sống và triệu
chứng lâm sàng BPTNMT(34).
Nghiên cứu chúng tôi không cho phép so
sánh trực tiếp CCQ và CAT về giá trị đại diện
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT vì
không có số liệu, tuy nhiên có thể cho phép so
sánh gián tiếp thông qua các nghiên cứu khác
(Bảng 5).
Bảng 5: Tương quan đơn biến giữa SGRQ với CCQ
và CAT
Nghiên cứu
Cỡ
mẫu
SGRQ &
CCQ
SGRQ &
CAT
Trị số p
Paul W Jones
(12)
227 0,80 < 0,001
Björn Ställberg
(29)
111 0,84 < 0,001
Thomas Ringbaek
(28)
90 0,75 0,73 < 0,001
Ioanna G Tsiligianni
(32)
90 0,77 0,65 < 0,01
Thái Thị Thùy Linh
(31)
100 0,51 < 0,001
Tạ Hữu Duy
(30)
100 0,80 < 0,001
Chúng tôi 151 0,73 < 0,01
Nghiên cứu của Paul W Jones và Björn
Ställberg được thiết kế nhằm kiểm định lần lượt
CAT và CCQ bằng cách so sánh với SGRQ. Dù
hai nghiên cứu này không so sánh trực tiếp CAT
và CCQ trên cùng dân số, hệ số tương quan giữa
SGRQ lần lượt với CAT (r=0,80) và CCQ (r=0,84)
trong hai nghiên cứu đều rất cao và tương
đương nhau gợi ý vai trò tương đương giữa
CAT và