Mục tiêu: Đánh giá có sự khác biệt kết quả đo độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc giữa hai máy Time Domain
OCT (Stratus OCT) và Spectral Domain OCT (Cirrus OCT) trên nhóm glaucoma và nhóm nghi ngờ glaucoma.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 40 mắt glaucoma và 30 mắt nghi ngờ glaucoma
nguyên phát góc mở. Tất cả bệnh nhân được đo độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc (RNFL: Retinal Nerve Fiber
Layer) quanh gai bằng máy Stratus OCT và Cirrus OCT trong cùng một ngày và bởi một kỹ thuật viên. Độ dày
RNFL đo bằng 2 máy trên được so sánh bằng phép kiểm paired t-test và mối tương quan kết quả này được đánh
giá bằng hệ số Spearman. Độ đồng thuận hai máy được đánh giá qua phương pháp Bland-Altman và hệ số Kappa.
Kết quả: Trên nhóm glaucoma, độ dày RNFL đo bằng hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT không có sự
khác biệt tại các vị trí trung bình 360° và góc tư thái dương, mũi. Trên nhóm nghi ngờ glaucoma, có sự khác biệt
kết quả đo ở tất cả các vị trí khảo sát. Có sự tương quan thuận, mạnh giữa hai máy OCT ở bốn góc tư và trung
bình 360°. Độ rộng giới hạn tương đồng thay đổi từ 24,8 μm đến 88,8 μm. Có sự đồng thuận chặt giữa hai máy
khi khảo sát độ dày RNFL trung bình (Kappa = 0,8).
Kết luận: Có sự khác biệt rõ, độ tương quan thuận, mạnh và sự đồng thuận chặt về số đo độ dày RNFL khi
so sánh hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT trên nhóm nghi ngờ glaucoma, trên nhóm glaucoma thì sự khác
biệt về số đo độ dày RNFL không rõ ràng. Trường hợp đã chẩn đoán POAG, thì sử dụng thiết bị Stratus OCT
hay Cirrus HD-OCT để đánh giá độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc đều được, nhưng nếu còn nghi ngờ chẩn
đoán glaucoma thì nên dùng Cirrus HD-OCT sẽ chính xác hơn.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh time domain oct và spectral domain oct trong khảo sát gai thịbệnh nhân glaucoma nguyên phát góc mở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 269
SO SÁNH TIME DOMAIN OCT VÀ SPECTRAL DOMAIN OCT
TRONG KHẢO SÁT GAI THỊ BỆNH NHÂN
GLAUCOMA NGUYÊN PHÁT GÓC MỞ
Trần Anh Tuấn*, Phạm Huy Vũ Tùng**, Nguyễn Trí Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá có sự khác biệt kết quả đo độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc giữa hai máy Time Domain
OCT (Stratus OCT) và Spectral Domain OCT (Cirrus OCT) trên nhóm glaucoma và nhóm nghi ngờ glaucoma.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 40 mắt glaucoma và 30 mắt nghi ngờ glaucoma
nguyên phát góc mở. Tất cả bệnh nhân được đo độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc (RNFL: Retinal Nerve Fiber
Layer) quanh gai bằng máy Stratus OCT và Cirrus OCT trong cùng một ngày và bởi một kỹ thuật viên. Độ dày
RNFL đo bằng 2 máy trên được so sánh bằng phép kiểm paired t-test và mối tương quan kết quả này được đánh
giá bằng hệ số Spearman. Độ đồng thuận hai máy được đánh giá qua phương pháp Bland-Altman và hệ số Kappa.
Kết quả: Trên nhóm glaucoma, độ dày RNFL đo bằng hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT không có sự
khác biệt tại các vị trí trung bình 360° và góc tư thái dương, mũi. Trên nhóm nghi ngờ glaucoma, có sự khác biệt
kết quả đo ở tất cả các vị trí khảo sát. Có sự tương quan thuận, mạnh giữa hai máy OCT ở bốn góc tư và trung
bình 360°. Độ rộng giới hạn tương đồng thay đổi từ 24,8 μm đến 88,8 μm. Có sự đồng thuận chặt giữa hai máy
khi khảo sát độ dày RNFL trung bình (Kappa = 0,8).
Kết luận: Có sự khác biệt rõ, độ tương quan thuận, mạnh và sự đồng thuận chặt về số đo độ dày RNFL khi
so sánh hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT trên nhóm nghi ngờ glaucoma, trên nhóm glaucoma thì sự khác
biệt về số đo độ dày RNFL không rõ ràng. Trường hợp đã chẩn đoán POAG, thì sử dụng thiết bị Stratus OCT
hay Cirrus HD-OCT để đánh giá độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc đều được, nhưng nếu còn nghi ngờ chẩn
đoán glaucoma thì nên dùng Cirrus HD-OCT sẽ chính xác hơn.
Từ khoá: Glaucoma, stratus OCT, cirrus OCT.
ABSTRACT
COMPARISON BETWEEN TIME DOMAIN AND SPECTRAL DOMAIN OPTICAL COHERENCE
TOMOGRAPHY IN EVALUATING OPTIC PERIPAPILLARY IN PRIMARY OPEN ANGLE
GLAUCOMA
Tran Anh Tuan, Pham Huy Vu Tung, Nguyen Tri Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 269 - 273
Objective: To evaluate Retinal Nerve Fiber Layer (RNFL) thickness measurements using Time Domain
(Stratus) and Spectral Domain (Cirrus) optical coherence tomography (OCT) in preperimetric and primary open
angle glaucoma (POAG).
Methods: A total of 40 POAG eyes and 30 preperimetric glaucoma eyes were chosen in this cross – sectional
observational study. All the subjects underwent peripapillary RNFL thickness measurements using Stratus OCT
and Cirrus OCT on the same day by a single trained operator. The RNFL thickness measured by 2 instruments
was statistically compared using paired t-test. The relationship between RNFL thickness was evaluated using
* Bệnh viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh ** Công ty cổ phần trang thiết bị y tế Phaco
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Huy Vũ Tùng ĐT: 0938003635 Email: vutungy02@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 270
Spearson’s correlation coefficient. Agreement between the OCT’s results was calculated by using Bland – Altman
method and Kappa coefficient.
Results: In POAG group, RNFL thickness measured using 2 instruments was generally not different in four
quadrants and average measurements. In preperimetric glaucoma group, there is difference in result between
Stratus and Cirrus in all positions. A highly significant correlation between the two OCT instruments
measurements was found in four quadrands and average RNFL thickness measurements. The widths of the limits
of agreement varied between 24.8μm and 88.8μm. There was almost perfect agreement (Kappa = 0.8) in average
RNFL classification.
Conclusions: Significant differences, an excellent correlation and a perfect agreement were noted in terms of
RNFL thickness measurements using Stratus and Cirrus OCT in preperimetric glaucoma group, but the
differences were not clear in POAG group. In POAG cases, both Stratus and Cirrus is good for evaluating RNFL,
however, in preperimetric glaucoma cases, Cirrus OCT is a better choice.
Key words: Glaucoma, stratus oct, cirrus oct.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Glaucoma là một bệnh lý thần kinh thị đặc
trưng bởi hình thái tổn thương đặc hiệu tiến
triển của lớp sợi thần kinh và gai thị, việc chẩn
đoán bệnh glaucoma chủ yếu dựa vào đo nhãn
áp, đánh giá gai thị và đo thị trường, trong đó thị
trường được xem như “ tiêu chuẩn vàng”, tuy
nhiên nhiều nghiên cứu đã cho thấy có 60%
trường hợp được phát hiện mất lớp sợi thần kinh
sáu năm trước khi có bất cứ khiếm khuyết thị
trường nào được phát hiện(7,8), như vậy việc khảo
sát được lớp sợi thần kinh võng mạc là hết sức
quan trọng. Nhiều thiết bị ra đời giúp giải quyết
vấn đề trên như GDx, HRT, OCT. Trước đây, thế
hệ máy Time domain (Stratus OCT) được đánh
giá rất cao về khả năng chẩn đoán bệnh
glaucoma, song hiện nay máy Spectral Domain
OCT (Cirrus OCT) tỏ ra hữu hiệu hơn trong chẩn
đoán chính xác bệnh glaucoma ở giai đoạn sớm.
Nhằm đánh giá có sự khác biệt giữa hai máy
OCT này hay không, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “So sánh giữa Time Domain OCT và
Spectral Domain OCT trong khảo sát gai thị
bệnh nhân glaucoma nguyên phát góc mở”.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu mô tả, cắt ngang bao gồm
40 mắt glaucoma và 30 mắt nghi ngờ glaucoma,
các bệnh nhân sau khi được chẩn đoán bệnh sẽ
được tiến hành chụp OCT tại bệnh viện Mắt
thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 9/2011 đến
2/2012. Tất cả các bệnh nhân đều được thăm
khám qua các bước: hỏi bệnh sử, thử thị lực + đo
khúc xạ, đo nhãn áp, thăm khám bằng đèn khe
với soi góc, soi đáy mắt, đo thị trường.
Nghiên cứu gồm hai nhóm:
Nhóm glaucoma: thỏa các điều kiện: góc tiền
phòng mở, nhãn áp ≥ 22 mmHg, gai thị bất
thường kiểu đặc trưng glaucoma, khiếm khuyết
thị trường (có hai trong ba tiêu chuẩn: 1.MD: có ≥
3 điểm tồn hại < 5% nằm ở vị trí điển hình của
tổn hại do glaucoma, ít nhất một điểm trong số
đó tổn hại <1% trên biểu đồ độ lệch thiết kế.
Trong các điểm này, không có điểm nào nằm sát
rìa, trừ khi cụm điểm này nằm ngay sát đường
ngang. 2.PSD có ý nghĩa với p < 5%. 3.GHT:
outside normal limits). Không có bệnh lí khác ở
mắt ngoài glaucoma.
Nhóm nghi ngờ glaucoma: Thoả các tiêu
chuẩn trên và có kết quả thị trường bình thường.
Tất cả bệnh nhân được tiến hành chụp bằng
máy Stratus, nghỉ năm phút, rổi tiếp tục được
chụp bằng máy Cirrus OCT.
Xử lí số liệu bằng phần mềm Medcalc 13. Độ
dày RNFL trung bình và các góc tư giữa hai máy
được so sánh bằng phép kiểm paired t-test. Biểu
đồ Bland – Altman và hệ số Kappa dùng để
đánh giá độ đồng thuận kết quả đo. Và đánh giá
sự tương quan dựa vào hệ số Spearman.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 271
KẾT QUẢ
Bảng 1 tóm tắt các đặc điểm chung của hai
nhóm bệnh nghiên cứu. Không có sự khác biệt
về độ tuổi và độ khúc xạ giữa hai nhóm
glaucoma và nghi ngờ glaucoma. Có sự khác
biệt về tỷ lệ C/D, chỉ số MD, PSD giữa hai
nhóm bệnh.
Bảng 1. Đặc điểm chung của các nhóm nghiên cứu.
Nhóm
N
(mắt)
Tuổi
(năm)
Độ khúc
xạ (diop)
Tỷ lệ
C/D
MD
(dB)
PSD
(dB)
Glaucoma 40 50,32 ±
14,01
-0,11 ±
1,26
0,61±
0,12
-8,92 ±
2,12
6,61 ±
2,05
Nghi ngờ
glaucoma
30 50,21 ±
13,45
-0,17 ±
1,43
0,42±
0,1
-1,33 ±
1,48
1,7 ±
0,5
F* 0,03 35,77 72,85 78,23
Nhóm
N
(mắt)
Tuổi
(năm)
Độ khúc
xạ (diop)
Tỷ lệ
C/D
MD
(dB)
PSD
(dB)
P* 0,87 0,001 0,00 0,00
* ANOVA một yếu tố
Nhóm glaucoma có độ dày RNFL tại các góc
đo trung bình 360º, thái dương và mũi gần như
tương đương nhau khi so sánh kết quả giữa 2
máy Stratus và Cirrus, ngoại trừ góc trên, dưới là
có sự chênh lệch kết quả đo của 2 máy. Kết quả
đo độ dày RNFL bằng 2 máy Stratus và Cirrus
trên nhóm nghi ngờ glaucoma lại có sự chênh
lệch rõ tại các góc đo, ngoại trừ vị trí thái dương,
kết quả đo của máy Cirrus mỏng hơn máy
Stratus (bảng 2).
Bảng 2: Chiều dày lớp sợi thần kinh võng mạc trung bình và các góc 90º.
Nhóm Độ dày RNFL Stratus OCT Cirrus OCT Stratus - Cirrus t * P
Trung bình 360º 75,5 ± 13,64 74,00 ± 13,05 -1,5 ± 6,55 -1,45 0,16
Trên 94,58 ± 22,88 91,38 ± 21,86 -3,20 ± 9,40 -2,15 0,04
Dưới 90,6 ± 22,03 85,20 ± 23,27 -5,40 ± 12,60 -2,71 0,01
Thái dương 57,85 ± 18,27 57,93 ± 15,79 0,07 ± 7,96 0,06 0,95
Glaucoma
Mũi 59,25 ± 13,52 61,35 ± 12,26 2,10 ± 16,96 0,78 0,44
Trung bình 360º 99,16 ± 6,22 93,83 ± 6,63 -5,33 ± 5,37 -5,44 0,00
Trên 120,5 ± 14,39 115,27 ± 16,96 -5,23 ± 10,66 -2,69 0,01
Dưới 126,1 ± 11,04 118,67 ± 12,29 -7,43 ± 8,85 -4,60 0,00
Thái dương 69,97 ± 11,38 69,47 ± 10,34 -0,50 ± 7,03 -0,39 0,7
Nghi ngờ glaucoma
Mũi 79,77 ± 16,29 71,63 ± 8,75 -8,13 ± 14,37 -3,10 0,00
*paired t-test
0
20
40
60
80
100
120
140
160
12 giờ 1 giờ 2 giờ 3 giờ 4 giờ 5 giờ 6 giờ 7 giờ 8 giờ 9 giờ 10 giờ 11 giờ
Các góc 30º
Độ
d
ày
R
NF
L
(μ
m
)
Nghi ngờ glaucoma (Stratus) Nghi ngờ glaucoma (Cirrus)
Glaucoma (Stratus) Glaucoma (Cirrus)
Biểu đồ 1. Phân phối số đo độ dày RNFL các múi giờ.
Kết quả các số đo độ dày RNFL ở hầu hết
các góc 30º từ hai máy Stratus và Cirrus trên
nhóm nghi ngờ glaucoma cho thấy sự khác
biệt có ý nghĩa (|t| >1,96; p <0,05), ngoại trừ vị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 272
trí 3 giờ, 7 giờ, 8 giờ, 9 giờ và 10 giờ. Kết quả
các số đo độ dày RNFL ở hầu hết các góc 30º
từ 2 máy Stratus và Cirrus trên nhóm
glaucoma cho thấy gần như không có sự khác
biệt, các số đo từ hai máy ở từng vị trí chênh
lệch nhau không nhiều. Giữa nhóm nghi ngờ
glaucoma và nhóm Glaucoma, có sự khác biệt
rõ ràng về kết quả đo ở từng vị trí các góc 30º
từ hai máy Stratus và Cirrus (biểu đồ 1).
Bảng 3: Hệ số tương quan Rs, phương trình hồi qui
giữa 2 máy Stratus OCT và Cirrus OCT.
Rs (95% CI) p Phương trình
hồi qui
Rs (95% CI) p Phương trình
hồi qui
Trung bình 360º 0,910 (0,85 – 0,94) 0,00 y=11,35+0,83x
Trên 0,910 (0,85 - 0,94) 0,00 y=7,05+0,89x
Dưới 0,932 (0,89 – 0,95) 0,00 y=3,23+0,91x
Thái dương 0,882 (0,81 – 0,92) 0,00 y=13,06+0,79x
Mũi 0,505 (0,31 – 0,66) 0,00 y=45,79+0,29x
4 vị trí: Trung bình 360º, trên, dưới và thái
dương đều có sự tương quan thuận, mạnh giữa
2 máy Stratus và Cirrus (Rs > 0,8), sự tương quan
có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001). Vị trí mũi cũng
có sự tương quan thuận giữa 2 máy ở mức độ
trung bình và sự tương quan cũng có ý nghĩa
thống kê (p < 0,0001).
50 60 70 80 90 100 110 120
-25
-20
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
25
(RNFL Stratus + RNFL Cirrus) / 2
R
N
FL
S
tr
at
us
-
R
N
FL
C
ir
ru
s
Mean
3.1
-1.96 SD
-9.7
+1.96 SD
16.0
Biểu đồ 2. Biểu đồ Bland-Altman sự tương đồng của độ dày RNFL trung bình 360º giữa Stratus và Cirrus.
Độ dày RNFL đo bằng máy Stratus dày
hơn độ dày RNFL đo bằng máy Cirrus trung
bình 3,1 ± 6,33 μm. Sự khác biệt về độ dày
RNFL đo được giữa 2 máy có sự tương quan
thuận với độ dày RNFL, RNFL càng mỏng thì
sự khác biệt càng nhỏ.
Bảng 4. Độ đồng thuận kết quả đo độ dày RNFL giữa
hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT.
Hệ số Kappa CI 95%
Tb 360° 0,798 0,646 - 0,949
Trên 0,794 0,624 – 0,964
Dưới 0,65 0,472 – 0,828
Thái dương 0,721 0,492 – 0,950
Mũi -0,036 -0,069 – -0,002
Độ đồng thuận của 2 máy khi cho kết quả đo
độ dày RNFL trung bình 360º và góc tư trên,
dưới, thái dương là chặt (Kappa >0,6). Góc tư
dưới đồng thuận ít.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu cho thấy trong nhóm glaucoma,
kết quả đo độ dày RNFL từ máy Stratus và
Cirrus là như nhau tại vị trí trung bình, khác
nhau tại góc tư trên và dưới, khảo sát chi tiết tại
các góc 30° cho thấy một số trường hợp RNFL đã
tổn thương nhiều thì kết quả đo của Cirrus dày
hơn Stratus nhưng nhìn chung, đa số trường
hợp, máy Stratus cho kết quả dày hơn Cirrus.
Ngược lại, trên nhóm nghi ngờ glaucoma, kết
quả đo của hai máy cho thấy sự khác biệt rõ tại
các vị trí trung bình, góc tư trên và dưới, đây là
những vị trí hết sức quan trọng khi khảo sát tổn
hai RNFL do glaucoma. Một số tác giả khác cho
kết quả có sự khác biệt ở tất cả các vị trí khảo sát
trên cả hai nhóm glaucoma và nghi ngờ
glaucoma(6,3,2). Sự khác biệt trong kết quả này có
o Nhóm nghi ngờ glaucoma
Nhóm glaucoma
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 273
thể do chính do ở hai máy OCT. Thứ hai, không
thể đảm bảo chắc chắn các lát cắt trên những
bệnh nhân khác nhau đạt được ở cùng một vị trí.
Thứ ba, chất lượng máy cũng là một yếu tố quan
trọng góp phần vào các sai lệch này.
Chúng tôi nhận thấy cả bốn vị trí: trung bình
360º, góc tư trên, dưới và thái dương đều có sự
tương quan thuận, mạnh giữa hai máy Stratus và
Cirrus. Vị trí mũi cũng có sự tương quan thuận
mức độ trung. Kết quả này cũng phù hợp với các
tác giả khác(3,9). Đáng chú ý, ở ba vị trí trung bình
360º, góc tư trên và dưới, chúng tôi ghi nhận có
sự tương quan rất, điều này có ý nghĩa rất quan
trọng trong chẩn đoán sớm bệnh bởi vì nhiều tác
giả đã khẳng định những tổn thương đầu tiên ở
lõm gai do glaucoma thường xuyên xảy ra nhất
tại vị trí này theo quy luật ISNT(1,5,4). Tuy nhiên
cũng như nghiên cứu của Javier(6), khi khảo sát
sự tương quan và giới hạn tương đồng (LoA)
giữa hai thiết bị Stratus OCT và Cirrus OCT,
chúng tôi thấy, trên quan điểm lâm sàng thì sự
tương đồng giữa hai máy lại thấp vì sự biến
thiên độ dày lớp sợi thần kinh võng mạc với giới
hạn tương đồng khá rộng (từ 24,8 μm đến 88,8
μm) so với giới hạn độ phân giải lý thuyết của
hai thiết bị (5 – 10 μm).
Hai thiết bị Stratus OCT và Cirrus HD-OCT
có độ đồng thuận cao trong chẩn đoán bệnh
glaucoma, đặc biệt ở hai vị trí góc tư trên, góc tư
dưới và trung bình 360º là những vị trí quan
trọng giúp định bệnh của các nhà lâm sàng. Kết
quả này tương tự tác giả Javier(6).
KẾT LUẬN
Trên cả hai nhóm glaucoma và nghi ngờ
glaucoma, vị trí góc tư trên và dưới thể hiện sự
khác biệt kết quả đo lớp sợi thần kinh võng mạc
rõ nhất và ở các vị trí khảo sát, đều có sự tương
quan thuận, mạnh giữa hai máy Stratus và
Cirrus. Ngoài ra ở phần lớn các vị trí đo, máy
Cirrus cho kết quả độ dày lớp sợi thần kinh võng
mạc mỏng hơn kết quả từ Stratus, trong trường
hợp đã chẩn đoán POAG, thì sử dụng thiết bị
Stratus OCT hay Cirrus HD-OCT để đánh giá độ
dày lớp sợi thần kinh võng mạc đều được,
nhưng nếu còn nghi ngờ chẩn đoán glaucoma
thì nên dùng Cirrus HD-OCT sẽ chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Budenz DL, Fredette MJ, et al. (2008), “Reproducibility of
peripapillary retinal nerve fiber thickness measurements with
Strtus OCT in glaucomatous eyes”, Ophthalmology, 115: 661-
666.
2. Knight ORJ, Chang RT, Feuer WJ (2009), “Comparison of
retinal nerve fiber layer measurements using time domain and
Spectral domain optical coherence tomography”,
Ophthalmology, 116(7): 1271-1277.
3. Lina H, Ning F, et al (2011), “Comparison of the diagnostic
ability of retinal nerve fiber layer thickness measured using
Time – domain and Spectral – domain optical coherence
tomography in primary open angle glaucoma”,Eye Science.
26(3): 132-138.
4. Mansberger SL, Zangwill LM, et al (2003),”Relationship of
optic disc topography and visual function in patients with large
cup-to-disc ratios”, Am J ophthalmol, 136:888-894, Elsevier.
5. Medeiros FA, Vizzeri G, Zangwill LM, et al (2008),
“Comparison of retinal nerve fiber layer and optic disc imaging
for diagnosing glaucoma in patients suspected of having the
disease”, Ophthalmology, 115:1340-1346.
6. Moreno-Montanes J, Olmo N, Alvarez A, et al (2010), “Cirrus
High-Definition optical coherence tomography compared with
Stratus optical coherence tomography in glaucoma diagnosis”,
Inves ophthalmol & Visual Sci. 51(1).
7. Sommer A, Miller NR, Pollack I, Maumenee AE, George T
(1977), “The nerve fiber layer in the diagnosis of glaucoma”,
Arch ophthalmol. 95: 2149-2156.
8. Tuulonen A, Lehtola J, Airaksinen PJ (1993), “Nerve fiber layer
defects with normal visual fields: do normal optic disc and
normal visual field indicate absence glaucomatous
abnormalitiy?”, Ophthlamology, 100: 587-597, discussion 597-
588.
9. Vizzeri G, Weinreb RN, et al (2009), “ Agreement between
Spectral – domain and Time – domain OCT for measuring
RNFL thickness “, Br J Ophthalmol, 93:775-781.