Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 124
TÌNH TRẠNG MÔ NHA CHU SAU PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN 
HÀM DƯỚI MỌC LỆCH Ở SEXTANT KẾ CẬN 
Nguyễn Tôn Việt*, Nguyễn Thị Bích Lý* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá sự thay đổi của mô nha chu ở các răng thuộc sextant 
kế cận với răng khôn hàm dưới mọc lệch tại thời điểm 1 và 3 tháng sau phẫu thuật. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng tiến cứu được thực hiện trên mẫu thuận tiện gồm 35 bệnh 
nhân (18 nam và 17 nữ) từ 20-29 tuổi có chỉ định nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch. Việc đánh giá lâm sàng tình 
trạng mô nha chu dựa theo các chỉ số mảng bám, chỉ số nướu, chỉ số chảy máu khi thăm khám và độ sâu túi khi 
thăm dò được thực hiện tại thời điểm trước phẫu thuật, 1 và 3 tháng sau phẫu thuật. 
 Kết quả và kết luận: Kết quả cho thấy sự giảm có ý nghĩa thống kê của các chỉ số mảng bám, chỉ số nướu, 
chỉ số chảy máu, độ sâu túi tại các thời điểm nghiên cứu. Từ đó cho phép kết luận việc phẫu thuật răng khôn hàm 
dưới mọc lệch có thể có tác động tích cực đến tình trạng nha chu của các răng thuộc sextant kế cận tại thời điểm 1 
tháng và 3 tháng sau khi phẫu thuật răng này. 
Từ khóa: Chỉ số mảng bám, chỉ số nướu, chỉ số chảy máu khi thăm khám, độ sâu túi. 
ABSTRACT 
THE PERIODONTAL STATUS OF MANDIBULAR PREMOLARS AND MOLARS IN ADJACENT 
QUADRANT AFTER SURGICAL EXTRACTION OF IMPACTED LOWER THIRD MOLARS 
Nguyen Ton Viet, Nguyen Thi Bich Ly 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 124 - 130 
Objective: The aim of this study was to evaluate the change in the periodontal status of mandibular 
premolars and molars in adjacent quadrant at 1 and 3 months after surgical extraction of impacted lower third 
molars. 
Mataerials and method: This clinical retrospective study was conducted on 35 patients (18 males and 17 
females) presenting an impacted lower third molar. Clinical examinations were carried out at baseline to 
determine the periodontal status (probing depth, bleeding on probing, dental plaque and gingival index). 1 and 3 
months after the surgery removing impacted mandibular third molars, all patients were reexamined to evaluate 
changes in periodontal status. 
Results: The results showed that all the clinical parameters decreased significantly during the follow-up 
period. 
Conclusion: The surgical removal of the lower third molars may provide some benefit in improving the 
gingival health of mandibular premolars and molars in adjacent quadrant. 
Key words: Gingival index, plaque, bleeding on probing, probing depth. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Răng khôn mọc lệch có thể gây ra các biến 
chứng như: viêm quanh thân răng, viêm mô tế 
bào, sâu răng, tiêu chân răng kế cận, viêm mô 
nha chu, u và nang gây ảnh hưởng nhiều đến 
sức khoẻ cũng như chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân(3,8,13). 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS Nguyễn Thị Bích Lý, ĐT: 093173673, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 125
So với răng khôn hàm trên, răng khôn hàm 
dưới thường được chỉ định nhổ theo phương 
pháp phẫu thuật, việc nhổ phẫu thuật răng khôn 
ít nhiều có ảnh hưởng đến tình trạng mô nha 
chu của các răng kế cận(2,4,9,11). 
Một vài nghiên cứu đã kết luận rằng có sự 
giảm chiều cao xương ổ, mất bám dính và tăng 
độ sâu túi ở mặt xa răng cối lớn thứ hai sau phẫu 
thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch kế cận(2,13). 
Tuy nhiên một số tác giả lại kết luận nhổ 
sớm răng khôn hàm dưới mọc lệch cải thiện 
đáng kể tình trạng nha chu ở mặt xa răng cối lớn 
thứ hai, đồng thời tác động tích cực đến tình 
trạng sức khoẻ răng miệng chung(8,12). 
Vì còn nhiều bàn cãi xung quanh vấn đề có 
hay không sự cải thiện tình trạng mô nha chu 
sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch, 
nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá 
sự thay đổi của mô nha chu tại các răng thuộc 
sextant kế cận với răng khôn hàm dưới mọc lệch 
tại thời điểm 1 và 3 tháng sau phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu gồm 35 bệnh nhân, được 
chọn theo kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện có chỉ 
định và nhu cầu phẫu thuật nhổ răng khôn hàm 
dưới mọc lệch, đến khám và điều trị tại bộ môn 
Phẫu thuật miệng, Khoa Răng Hàm Mặt - Đại 
Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh trong khoảng thời 
gian từ 2/2012-6/2012. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Bệnh nhân trên 18 tuổi có răng khôn hàm 
dưới mọc lệch và chưa có tai biến tại chỗ do răng 
khôn. Bệnh nhân có sức khoẻ toàn thân tốt và 
hiện không sử dụng bất kì thuốc nào có ảnh 
hưởng đến sự chảy máu và lành thương sau 
phẫu thuật. 
Tiêu chí loại trừ 
Bệnh nhân không hợp tác trong việc tuân thủ 
các quy định về tái khám sau phẫu thuật. Bệnh 
nhân có bệnh nha chu đang điều trị trong thời 
gian nghiên cứu hay có tình trạng nhiễm trùng 
cấp tại vị rí răng khôn. Bệnh nhân có các bệnh lý 
toàn thân ảnh hưởng đến chỉ định của phẫu 
thuật hay có tiền sử dị ứng với thuốc tê. 
Thiết bị nghiên cứu 
Dụng cụ: bộ đồ khám, bộ dụng cụ phẫu 
thuật, trâm thăm dò UNC-15. 
Vật liệu: thuốc tê Lidocaine 2% HCL với 
thuốc co mạch Epinephrin nồng độ 1:100000, 
chỉ 3.0. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiêm lâm sàng có đối chứng. 
Chuẩn bị trước nghiên cứu 
Bệnh nhân được nghiên cứu viên giải thích 
và thông báo đầy đủ về mục đích, cách thức tiến 
hành nghiên cứu và kí tên vào phiếu đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 
Nghiên cứu viên được tập huấn cách ghi 
nhận các chỉ số: chỉ số nướu, chỉ số chảy máu khi 
thăm dò, chỉ số độ sâu túi tại Bộ môn Nha chu-
Khoa Răng Hàm Mặt - Đại Học Y Dược Tp.Hồ 
Chí Minh và bắt đầu thực hiện nghiên cứu khi 
đạt được độ kiên định cao khi thăm khám. 
Các bước thực hiện 
Trước phẫu thuật 
Bệnh nhân được chụp phim toàn cảnh, xét 
nghiệm tiền phẫu, đánh giá các chỉ số nha 
chu tại các răng thuộc sextant kế cận răng 
khôn cần phẫu thuật, bao gồm: 
- Chỉ số mảng bám PlI của Loe và Silness 
(1967): được chia thành 4 mức độ: (0) không 
hiện diện mảng bám, (1) mắt thường không 
thấy mảng bám nhưng thấy được khi dùng 
đầu cây thăm dò túi nha chu cạo trên bề mặt 
răng từ khe nướu, (2) mảng bám thấy đươc 
bằng mắt thường, (3) mảng bám, vụn thức ăn 
tích tụ nhiều. Đánh giá tại các vị trí của răng: 
gần ngoài, giữa ngoài, xa ngoài và mặt trong 
từ răng cối nhỏ đến răng cối lớn thứ hai. Tổng 
điểm của bốn vị trí được chia trung bình để có 
điểm số cho mỗi răng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 126
- Chỉ số nướu GI của Loe và Silness (1963) 
được chia thành 4 mức độ: (0) nướu bình 
thường, (1) nướu viêm nhẹ: thay đổi nhẹ về màu 
sắc, hơi phù nề, không chảy máu khi thăm dò, 
(2) nướu viêm trung bình: nướu đỏ, phù nề, chảy 
máu khi thăm dò, (3) nướu viêm nặng: nướu đỏ 
và phù nề nhiều, lở loét, chảy máu tự phát. Đánh 
giá tại các vị trí: gai nướu gần ngoài, nướu mặt 
giữa ngoài, gai nướu xa ngoài và nướu mặt trong 
từ răng cối nhỏ đến răng cối lớn thứ hai. Tổng 
điểm của bốn vị trí được chia trung bình để có 
điểm số cho mỗi răng. 
- Chỉ số chảy máu khi thăm dò BOP: xác 
định có hay không có chảy máu khi thăm khám 
đúng cách, đánh giá tại những vị trí gai nướu, 
nướu viền mặt ngoài và mặt trong từ răng cối 
nhỏ đến răng cối lớn thứ hai. 
Phần trăm vị trí chảy máu khi thăm khám 
(%BOP): 
*100Soá vò trí chaûy maùu khi thaêm khaùm
Toång vò trí thaêm khaùm
- Chỉ số độ sâu túi PD: đo khoảng cách từ bờ 
nướu đến đáy túi tại 4 vị trí trên răng cối lớn thứ 
hai kế cận với răng khôn: xa ngoài, xa trong, giữa 
ngoài, giữa trong và được tính bằng millimét. 
Trong phẫu thuật 
Tất cả các bệnh nhân đều được phẫu thuật 
bởi cùng một phẫu thuật viên theo kỹ thuật 
phẫu thuật cơ bản đang được sử dụng tại bộ 
môn Phẫu thuật miệng, Khoa Răng Hàm Mặt - 
Đại Học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. 
Tất cả bệnh nhân đều dùng toa thuốc 
giống nhau gồm: Amoxicilline 500mg, 15 viên, 
ngày uống 3 lần, mỗi lần một viên; 
Paracetamol 500mg, 9 viên, ngày uống 3 lần, 
mỗi lần một viên. 
Sau phẫu thuật 
Bệnh nhân được cắt chỉ vào ngày thứ bảy 
sau phẫu thuật và được hẹn quay lại tái khám 
sau 1 tháng và 3 tháng để ghi nhận lại các chỉ số 
nghiên cứu. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu thu thập được phân tích và xử lý 
bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0. Sử dụng 
phép kiểm t bắt cặp so sánh các chỉ số trước và 
sau phẫu thuật. 
Tất cả các kiểm định trên được dùng với độ 
tin cậy 95% và được kết luận có sự khác biệt có ý 
nghĩa khi p<0,05, sự khác biệt không có ý nghĩa 
khi p>0,05. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Phân bố tuổi của mẫu nghiên cứu. 
 n Tuổi trung bình 
Nam 18 (51,4%) 23,72 + 2,65 
Nữ 17 (48,6%) 24,18 + 3,54 
Tổng 35 23,94 + 3,08 
Mẫu nghiên cứu cuối cùng gồm 35 bệnh 
nhân (18 nam, 17 nữ) với độ tuổi trung bình là 
23,94 ± 3,08. 
Bảng 2: So sánh chỉ số mảng bám ở các răng thuộc 
sextant kế cận trước và sau phẫu thuật. 
 Trước PT 
(TB+ðLC) 
p1 Sau PT 1 
tháng 
(TB+ðLC) 
p2 Sau PT 3 
tháng 
(TB+ðLC) 
p3 
Răng 4 0,46 + 0,68 NS 0,43 + 0,58 *** 0,24 + 0,43 *** 
Răng 5 0,56 + 0,71 NS 0,54 + 0,71 ** 0,38 + 0,52 ** 
Răng 6 0,72 + 0,78 NS 0,66 + 0,64 *** 0,48 + 0,54 *** 
Răng 7 1,01 + 0,85 ** 0,79 + 0,61 * 0,68 + 0,51 *** 
p1: phép kiểm t bắt cặp, so sánh giữa trước PT và sau PT 1 
tháng . p2: kiểm định t bắt cặp, so sánh giữa sau PT 1 
tháng và 3 tháng. p3: kiểm định t bắt cặp, so sánh 
giữa trước PT và sau PT 3 tháng. 
NS: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
*: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,0, **: sự khác biệt có 
ý nghĩa với p<0,01, ***: sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,001. 
Chỉ số mảng bám ở tất cả các răng thuộc 
sextant kế cận răng khôn mọc lệch giảm sau 
phẫu thuật so với trước phẫu thuật, trong đó 
giảm rõ rệt nhất ở răng 7 và xuất hiện sớm ở thời 
điểm 1 tháng sau phẫu thuật. 
Chỉ số nướu giảm so với trước phẫu thuật ở 
các răng thuộc sextant kế cận răng khôn mọc lệch, 
trong đó giảm rõ rệt ở răng 6 và răng 7, xuất hiện 
sớm ở thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng và các 
răng 4, 5 chỉ có khác biệt sau 3 tháng. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 127
Bảng 3: So sánh chỉ số nướu ở các răng thuộc sextant 
kế cận trước và sau phẫu thuật. 
 Trước PT 
(TB+ðLC) 
p1 Sau PT 
1tháng 
(TB+ðLC) 
p2 Sau PT 
3tháng 
(TB+ðLC) 
p3 
Răng 4 0,81 + 0,68 NS 0,71 + 0,67 NS 0,71 + 0,62 * 
Răng 5 0,83 + 0,73 NS 0,76 + 0,71 NS 0,64 + 0,66 ** 
Răng 6 0,94 + 0,72 *** 0,65 + 0,66 NS 0,59 + 0,70 *** 
Răng 7 1,20 + 0,72 * 1,00 + 0,76 * 0,70 + 0,76 *** 
p1: phép kiểm t bắt cặp, so sánh giữa trước PT và sau PT 1 
tháng . p2: kiểm định t bắt cặp, so sánh giữa sau PT 1 
tháng và 3 tháng. p3: kiểm định t bắt cặp, so sánh 
giữa trước PT và sau PT 3 tháng. NS: sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. 
*: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,0, **: sự khác biệt có 
ý nghĩa với p<0,01, ***: sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,001. 
Bảng 4: So sánh %BOP của toàn sextant trước và 
sau phẫu thuật. 
 Trước 
PT(TB+ðLC) 
p1 
Sau PT 
1tháng 
(TB+ðLC) 
p2 
Sau PT 3 
tháng(TB+ðLC) 
p3 
Sextant 
24,11 + 22,85 
* 16,61+ 
11,74 
* 
12,14+12,03 
*** 
p1: phép kiểm t bắt cặp, so sánh giữa trước PT và sau PT 1 
tháng . p2: kiểm định t bắt cặp, so sánh giữa sau PT 1 
tháng và 3 tháng. p3: kiểm định t bắt cặp, so sánh 
giữa trước PT và sau PT 3 tháng. 
NS: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
*: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,0. **: sự khác biệt có ý 
nghĩa với p<0,01. ***: sự khác biệt có ý nghĩa với 
p<0,001. 
Chỉ số chảy máu khi thăm dò: phần trăm vị 
trí chảy máu khi thăm dò của toàn sextant giảm 
có ý nghĩa thống kê giữa trước phẫu thuật và sau 
phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng và giữa sau phẫu 
thuật 1 tháng, 3 tháng. 
Bảng 5: So sánh độ sâu túi ở răng 7 trước và sau 
phẫu thuật . 
Vị trí Trước 
PT(TB+ðLC) 
p1 Sau PT 1 
tháng 
(TB+ðLC) 
p2 Sau PT 3 
tháng 
(TB+ðLC) 
p3 
Xa 
ngoài 4,03 + 1,71 
* 
3,46 + 1,36 
NS 
3,51 + 1,67 
NS 
Xa 
trong 3,51 + 1,60 
** 
2,74 + 0,89 
NS 
2,89 + 1,28 
** 
Giữa 
ngoài 2,11 + 0,76 
NS 
1,94 + 0,59 
NS 
1,94 + 0,68 
NS 
Giữa 
trong 2,17 + 0,62 
** 
1,80 + 0,63 
NS 
2,00 + 0,73 
NS 
p1: phép kiểm t bắt cặp, so sánh giữa trước PT và sau PT 1 
tháng . p2: kiểm định t bắt cặp, so sánh giữa sau PT 1 
tháng và 3 tháng. p3: kiểm định t bắt cặp, so sánh 
giữa trước PT và sau PT 3 tháng. 
NS: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
*: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,0, **: sự khác biệt có 
ý nghĩa với p<0,01, ***: sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,001. 
Độ sâu túi ở răng cối lớn thứ hai chỉ cải thiện 
có ý nghĩa tại vị trí xa ngoài và xa trong ở thời 
điểm sau phẫu thuật 1 tháng. 
BÀN LUẬN 
Việc nhổ răng khôn mọc lệch khi gây biến 
chứng làm tổn thương mô nha chu răng cối lớn 
thứ hai kế cận từ lâu đã được xem là một chỉ 
định rõ ràng. Tuy nhiên, lại có nhiều ý kiến trái 
ngược về chỉ định nhổ răng khôn mọc lệch chưa 
gây biến chứng. Một số nghiên cứu cũng đã ghi 
nhận có sự ảnh hưởng xấu đến tình trạng mô 
nha chu của răng cối lớn thứ hai kế cận sau khi 
nhổ răng khôn từ việc tạo vạt, mở xương, khâu... 
Trong khi có nghiên cứu lại thấy có sự cải thiện 
tình trạng nha chu ở răng này sau khi nhổ răng 
khôn lệch. Chính vì vậy, nghiên cứu của chúng 
tôi nhằm khảo sát sự thay đổi tình trạng nha chu 
ở các răng tại sextant kế cận với răng khôn mọc 
lệch sau khi phẫu thuật răng này, đặc biệt chú 
trọng đến răng cối lớn thứ hai. Do thời gian 
nghiên cứu giới hạn, chúng tôi chỉ có thể theo 
dõi kết quả sau 3 tháng phẫu thuật, điều này 
cũng ảnh hưởng phần nào đến kết quả vì phần 
lớn các giá trị về tình trạng mô nha chu có ý 
nghĩa rõ rệt sau khoảng thời gian từ 6 tháng đến 
1 năm. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự cải 
thiện chỉ số mảng bám, chỉ số nướu, chỉ số 
chảy máu khi thăm dò ở các bệnh nhân sau 
phẫu thuật nhổ răng khôn mọc lệch. Sự thay 
đổi này rõ rệt nhất ở thời điểm 3 tháng sau 
phẫu thuật hơn là 1 tháng và cao hơn nhiều ở 
răng số 7 so với những răng khác (Bảng 3.2, 
Bảng 3.3, Bảng 3.4). Đối với chỉ số mảng bám, 
sự cải thiện này có thể được giải thích do bệnh 
nhân vệ sinh răng miệng tốt hơn cũng như sự 
tự chải rửa cũng được cải thiện sau phẫu thuật 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 128
răng khôn. Vị trí mọc lệch của răng khôn 
thường gây nên việc nhét thức ăn giữa răng 
này và răng cối lớn kế bên khiến cho việc kiểm 
soát vệ sinh răng miệng của bệnh nhân bị ảnh 
hưởng đáng kể; đôi khi còn làm cho bệnh 
nhân hạn chế ăn nhai ở bên vùng hàm có răng 
khôn lệch. Sau phẫu thuật nhổ răng khôn, các 
nguyên nhân này được loại bỏ nên có sự cải 
thiện đáng kể về các chỉ số này. Ngoài ra, việc 
tái khám liên tục từ khi mới bắt đầu điều trị 
đến sau phẫu thuật cũng phần nào tạo tác 
động thuận lợi về tâm lý cho bệnh nhân khiến 
họ tăng cường vệ sinh răng miệng và quan 
tâm hơn đến vấn đề răng miệng của mình; 
điều này cũng góp phần làm thay đổi đáng kể 
chỉ số mảng bám sau phẫu thuật. Sự thay đổi 
về các chỉ số mảng bám diễn ra rõ rệt ở răng 
số 7 nhiều hơn so với những răng khác có thể 
giải thích do vị trí răng này nằm sát răng 
khôn, chịu nhiều bất lợi từ sự mọc lệch của 
răng khôn hơn so với những răng khác, lại ở 
vị trí dễ tích tụ thức ăn, mảng bám và khó chải 
rửa hơn so với các răng khác. Chính vì vậy, 
khi răng khôn được nhổ và bệnh nhân tăng 
cường vệ sinh răng miệng thì sự cải thiện ở 
răng này đáng kể so với các răng khác. Sự cải 
thiện về chỉ số nướu phù hợp với sự cải thiện 
mảng bám vì viêm nướu liên quan chặt chẽ 
với sự kiểm soát mảng bám và chỉ diễn ra sau 
khi có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực 
từ việc kiểm soát mảng bám, các lý giải cho 
việc thay đổi về chỉ số nướu cũng tương tự 
như đối với chỉ số mảng bám, răng khôn mọc 
lệch cùng với những biến chứng của nó đã 
ảnh hưởng đến khả năng vệ sinh răng miệng 
của bệnh nhân cũng như ảnh hưởng đến khả 
năng tự làm sạch theo cơ chế tự nhiên khi 
bệnh nhân có xu hướng sử dụng bên đối diện 
cho việc nhai. Do đó việc nhổ răng khôn hàm 
dưới mọc lệch ảnh hưởng tích cực đến việc 
kiểm soát mảng bám từ đó tạo những thay đổi 
trên nướu. Sự thay đổi về tình trạng chảy máu 
nướu cũng phù hợp với sự cải thiện tình trạng 
viêm nướu của các răng thuộc sextant kế cận 
sau phẫu thuật. 
Kết quả về cải thiện tình trạng nướu tại các 
răng thuộc sextant kế cận với răng khôn mọc 
lệch sau khi nhổ răng này trong nghiên cứu 
của chúng tôi phù hợp với kết quả của một số 
nghiên cứu trên thế giới. Giglio và cộng sự 
(1994)(6) khi nghiên cứu ảnh hưởng của việc 
nhổ răng khôn lên chỉ số mảng bám và chỉ số 
nướu cũng đã kết luận có sự cải thiện tình 
trạng mô nướu của các bệnh nhân tham gia 
nghiên cứu. Javier và cộng sự (2011)(12) trong 
khi đánh giá ảnh hưởng của việc nhổ răng 
khôn hàm dưới mọc lệch lên tình trạng của mô 
nha chu răng cối lớn thứ hai kế cận cũng đưa 
ra kết luận việc nhổ răng khôn hàm dưới mọc 
lệch cũng mang lại những cải thiện tích cực 
lên tình trạng nha chu của 4 sextant phía sau. 
Khi so sánh sự thay đổi về độ sâu túi tại vị trí 
răng 7 trước và sau phẫu thuật, kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy sự thay đổi về giá trị 
này diễn ra không giống nhau ở các vị trí trên 
răng này (Bảng 3.5). Tuy nhiên, nhìn chung 
nghiên cứu đều cho thấy có sự cải thiện về độ 
sâu túi sau can thiệp nhổ răng so với trước can 
thiệp, điều này cũng phù hợp với kết quả từ một 
số các nghiên cứu khác trên thế giới. Kulgelberg 
và cộng sự (1991)(9) khi nghiên cứu tình trạng 
nha chu răng cối lớn thứ hai sau phẫu thuật răng 
khôn mọc lệch ở 2 nhóm tuổi (nhỏ hơn 20 tuổi và 
lớn hơn 30 tuổi) đã ghi nhận độ sâu túi giảm có ý 
nghĩa thống kê ở cả 2 nhóm. Nghiên cứu của 
Javier(12) cũng cho thấy độ sâu túi ở mặt xa răng 
cối lớn thứ hai hàm dưới kế cận răng khôn mọc 
lệch giảm có ý nghĩa sau 3 tháng phẫu thuật. 
Coleman và cộng sự (2011)(5) cũng kết luận trong 
nghiên cứu của mình là việc nhổ răng khôn mọc 
lệch không làm tổn thương mô nha chu ở răng 7 
mà trong một số những trường hợp còn giúp cải 
thiện độ sâu túi ở những răng này. Chúng tôi 
chưa ghi nhận được trường hợp nào có sự gia 
tăng về độ sâu túi, trầm trọng thêm thêm bệnh lý 
nha chu tại răng 7 sau can thiệp nhổ phẫu thuật 
răng khôn mọc lệch, mặc dù trong y văn cũng đã 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 129
có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. 
Nghiên cứu của Peng(13) và Richardson(14) nhận 
thấy có sự tăng độ sâu túi, mất bám dính và 
giảm chiều cao xương ổ ở mặt xa răng cối lớn 
thứ hai sau nhổ răng khôn lệch. Chính các kết 
quả này cũng đã phần nào hỗ trợ cho quan điểm 
không nên nhổ dự phòng các răng khôn mọc 
lệch khi chưa gây biến chứng vì có thể ảnh 
hưởng đến tình trạng mô nha chu tại răng 7. Tuy 
nhiên, có vẻ như quan điểm này không được sự 
đồng ý của nhiều tác giả, phần lớn các nghiên 
cứu đều cho thấy nên nhổ sớm răng khôn mọc 
lệch cho dù chưa gây biến chứng, nhất là khi các 
răng này có độ lệch gần nhiều, tiếp xúc sát với 
mặt xa của răng số 7 vì đây là những trường hợp 
gây tổn thương mô nha chu cho răng này nhiều 
nhất sau can thiệp(12). Nghiên cứu của Blakey(2) 
theo dõi tiến triển tự nhiên sau 2 năm của các 
răng khôn mọc lệch chưa gây biến chứng thì cho 
thấy có sự gia tăng bệnh lý nha chu tại răng này 
và răng cối lớn thứ hai kế bên biểu hiện bằng sự 
gia tăng độ sâu túi so với thời điểm bắt đầu theo 
dõi, nhất là khi đã có những vị trí có độ sâu túi 
trên 4mm ở thời điểm ban đầu. 
Tuổi của bệnh nhân có ảnh hưởng quan 
trọng đến sự thay đổi tình trạng nha chu tại vị trí 
răng cối lớn thứ hai kế bên sau nhổ răng khôn, 
trong đó ở độ tuổi càng trẻ thì sự lành thương 
càng