Các bà mẹ có con nhập viện tại khoa Sơ sinh – bệnh viện Nhi Đồng I được giả thiết là bị đau khổ nặng.
Mục tiêu: Xác định mức độ và tỷ lệ trầm cảm dựa trên thang lượng giá EPDS và các yếu tố có thể liên
quan đến trầm cảm của bà mẹ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt, nghiên cứu định lượng kết hợp với định tính, các bà
mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I được chọn vào nhóm nghiên cứu từ
tháng 12/2010 đến tháng 5/2011, đồng ý tham gia hợp tác.
Kết quả: Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83 ± 5,785 (5 – 28). 29,2% bà mẹ có EPDS <13 điểm.
70,8% bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm. 27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.
Kết luận: Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này, chúng tôi mong muốn các bà mẹ có con nằm ở phòng
cấp cứu khoa Sơ sinh được tầm soát về trầm cảm sau sinh thường quy hơn. Đồng thời có sự chăm sóc thích hợp
nhất cho các bà mẹ này về y tế và tâm lý.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non đang nằm viện tại khoa Sơ sinh – Bệnh viện Nhi đồng I, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 70
TRẦM CẢM Ở BÀ MẸ CÓ CON SINH NON ĐANG NẰM VIỆN
TẠI KHOA SƠ SINH – BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I
Phạm Ngọc Thanh*, Isabelle Santarelli*, Phạm Thị Yến Trinh*, Dương Tố Trân*
TÓM TẮT
Các bà mẹ có con nhập viện tại khoa Sơ sinh – bệnh viện Nhi Đồng I được giả thiết là bị đau khổ nặng.
Mục tiêu: Xác định mức độ và tỷ lệ trầm cảm dựa trên thang lượng giá EPDS và các yếu tố có thể liên
quan đến trầm cảm của bà mẹ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt, nghiên cứu định lượng kết hợp với định tính, các bà
mẹ có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng I được chọn vào nhóm nghiên cứu từ
tháng 12/2010 đến tháng 5/2011, đồng ý tham gia hợp tác.
Kết quả: Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83 ± 5,785 (5 – 28). 29,2% bà mẹ có EPDS <13 điểm.
70,8% bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm. 27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.
Kết luận: Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này, chúng tôi mong muốn các bà mẹ có con nằm ở phòng
cấp cứu khoa Sơ sinh được tầm soát về trầm cảm sau sinh thường quy hơn. Đồng thời có sự chăm sóc thích hợp
nhất cho các bà mẹ này về y tế và tâm lý.
Từ khóa: trầm cảm sau sinh, bà mẹ, trẻ sinh non, EPDS.
ABSTRACT
DEPRESSION IN MOTHERS OF PREMATURE NEONATES HOSPITALIZED IN NEONATALOGY-
DEPARTMENT OF CHILDREN’S HOSPITAL 1
Pham Ngoc Thanh, Isabelle Santarelli, Pham Thi Yen Trinh, Duong To Tran
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 70 - 75
Mothers of neonates admitted in the Department of Neonatology - Children's Hospital are believed to have
severe distress.
Objectives: To determine the level and percentage of depression based on the Edinburg Postpartum
Depression Scale (EPDS) and other factors related to maternal depression.
Methodology: This was a prospective and serial descriptive study with a combination of quantitative and
qualitative research. The mothers of premature neonates treated in the Department of Neonatology of Children's
Hospital I were selected in the study from 12/2010 to 5/2011, with their consent.
Results: The average EPDS score was 15.83 ± 5.785 (5 – 28). 29.2% of mothers with EPDS <13 points.
70.8% of mothers with EPDS ≥ 13 points. 27.1% of mothers had suicidal thoughts
Conclusion: With a high EPDS score of the mothers in this survey, we wish all the mothers of premature
neonates hospitalized in the emergency room of the Neonatology department should be screened for postpartum
depression. Simultaneously these depressed mothers need medical and psychological care.
Keywords: postpartum, mothers, premature neonates, EPDS
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng làm mẹ mới bao gồm nhiều thay
đổi đột xuất và được nhìn nhận như một biến
cố gây stress trong đời(6,5). Các nghiên cứu gần
đây cho thấy 10 – 15% phụ nữ có trầm cảm
* Tâm lý & Khoa Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Phạm Thị Yến Trinh, ĐT: 0903312064, Email: phamtrinh64@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 71
sau sinh, và 10% có rối loạn lo âu sau sinh(4,12).
Mặc dù các yếu tố nguy cơ tiên báo trầm cảm
sau sinh đã được nghiên cứu chi tiết ở các bà
mẹ có con sinh đủ tháng và lành mạnh, hiện
nay vẫn còn nghiên cứu hạn chế về các vấn đề
tâm lý của người mẹ có con sinh non sau khi
trẻ được nhập viện.
Việc bà mẹ trầm cảm sau sinh kết hợp với
việc trẻ sinh non nằm viện ảnh hưởng ít nhiều
đến mối quan hệ sớm mẹ - con. Những ảnh
hưởng trong thời kỳ này đã được nhiều nhà tâm
lý và phân tâm nhấn mạnh rằng phần lớn các
chứng tâm bệnh bắt nguồn từ các rối nhiễu
trong mối quan hệ sớm mẹ - con. Do vậy muốn
tiếp cận dự phòng và trị liệu trong lĩnh vực tâm
bệnh ở trẻ nhỏ đòi hỏi hiểu biết và kinh nghiệm
về khủng hoảng tâm lý của thời kỳ sinh con với
những gian truân của nó(3).
Ở các nước phương Tây, tâm lý sản phụ trên
góc độ trầm cảm sau sinh đã được nghiên cứu
từ lâu. Marcé (Chuyên luận-1858) là người đầu
tiên nêu lên các hiện tượng trầm cảm sau sinh.
Từ đó, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới thích
nghi của sản phụ suốt thời kỳ mang thai, tới lúc
sinh và sau khi sinh(3).
Ở Việt Nam, ngành y tế đã có nhiều đóng
góp trong việc bảo vệ nâng cao sức khỏe thể
chất của sản phụ và sơ sinh, song về mặt tâm lý
còn ít được quan tâm. Chỉ vài năm nay, lĩnh vực
này mới được tìm hiểu, khai tâm cho các nhà
sản phụ khoa, nhi khoa và tâm lý để cùng tiếp
cận, chẩn đoán, phòng và trị liệu cho sản phụ và
sơ sinh(3). Những nghiên cứu trong khoảng thời
gian gần đây phát hiện ra rằng trong giai đoạn
hậu sản, một giai đoạn dễ nhạy cảm với những
thay đổi trong cuộc sống của bà mẹ và đứa trẻ
mới sinh, thì rối loạn tâm lý thường gặp nhất là
trầm cảm(7,8). Trầm cảm sau sinh có thể gây ra
những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
của bà mẹ và với đứa trẻ vừa mới sinh. Một
trong những hậu quả trầm trọng của trầm cảm
sau sinh là bà mẹ có thể xuất hiện những ý nghĩ,
hành vi tự sát, tự hủy hoại bản thân và có thể
giết chết đứa trẻ vừa mới sinh(7,8).
Vì thế chúng tôi nghĩ việc thực hiện nghiên
cứu về đề tài này sẽ thú vị và sáng tạo. Hơn nữa,
nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi thực hiện việc
phân tích yêu cầu trợ giúp và hỗ trợ y tế / tâm lý
cho các bà mẹ này để có thể đề nghị sự chăm sóc
thích hợp nhất cho họ.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát mức độ trầm cảm ở bà mẹ có con
sinh non đang nằm điều trị tại khoa Sơ sinh –
Bệnh viện Nhi Đồng I
Mục tiêu chuyên biệt
Mô tả đặc điểm dịch tễ học, và các dấu hiệu
lâm sàng của bệnh lý trầm cảm.
Mô tả các yếu tố liên quan đến trầm cảm của
bà mẹ.
Xác định mức độ trầm cảm dựa trên thang
lượng giá EPDS
Xác định tỷ lệ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh
non nằm viện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số chọn mẫu
Các bà mẹ có con sinh non đang điều trị tại
khoa Sơ Sinh từ tháng 12/2010 đến tháng 5/2011,
đồng ý tham gia hợp tác.
Địa điểm nghiên cứu
Khoa Sơ Sinh (lầu 2) bệnh viện Nhi Đồng I
Phương tiện thu thập dữ liệu và thời gian
Các bà mẹ được liên lạc trong khoa Sơ Sinh
của Bệnh viện Nhi Đồng 1, trong khoảng thời
gian 6 tháng (từ tháng 12/2010 đến tháng 5/2011)
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt, nghiên
cứu định lượng kết hợp với định tính, các bà mẹ
có con sinh non đang điều trị tại khoa Sơ sinh
Bệnh viện Nhi Đồng I được chọn vào nhóm
nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 72
Mẫu nghiên cứu
Tính chất và phạm vi: dự kiến 100 phụ nữ là
bà mẹ của trẻ sinh non đang nằm viện.
Trong thời gian 6 tháng, tuy số trẻ nhập viện
đông nhưng để thỏa điều kiện chọn mẩu là các
bà mẹ đang nuôi con trong vòng 48 giờ sau khi
nhập viện thì số mẫu không thể đủ. Do trong
thời gian này các bà mẹ sinh con còn non ngày
tháng nên không được gia đình đồng ý cho đến
bệnh viện nuôi con. Chính vì thế số mẫu nghiên
cứu chỉ đạt được n = 48
Các bước tiến hành
Chọn tất cả các phụ nữ là các bà mẹ có con
sinh non đang điều trị tại khoa Sơ Sinh (lầu 2)
bệnh viện Nhi Đồng I, nhập khoa sơ sinh trong
vòng 48 giờ.
Giải thích và làm phiếu thông tin thu thập từ
hồ sơ bệnh án.
Tiếp xúc trực tiếp để thông báo và giải thích
cho các bà mẹ hiểu về mục tiêu nghiên cứu và
giấy đề nghị hợp tác.
Thực hiện thang lượng giá trầm cảm:
Edinburg Postpartum Depression Scale (EPDS).
Thực hiện phỏng vấn.
Cách thu thập số liệu
Sau khi bà mẹ được giải thích và đồng ý
tham gia nghiên cứu, thành viên của nhóm
nghiên cứu tại khoa Sơ sinh thu thập thông tin
từ hồ sơ bệnh án của trẻ.
Phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt.
Cuộc phỏng vấn được tiến hành tại một
phòng của khoa Sơ Sinh hoặc đơn vị Tâm lý,
thời gian cho một cuộc phỏng vấn 20 – 30
phút/ bà mẹ. (không ghi âm theo ý kiến của
các bà mẹ).
Mỗi bà mẹ được cấp một bộ công cụ đánh
giá gồm: bảng câu hỏi và thang lượng giá
trầm cảm: Edinburg Postpartum Depression
Scale (EPDS).
Các bà mẹ được hướng dẫn trả lời câu hỏi
theo thời gian của họ và phản ảnh ý kiến cũng
như cảm xúc của riêng họ mà không tham khảo
ý kiến của người khác.
Những bà mẹ khó hiểu quy trình và bảng
câu hỏi sẽ được thành viên nhóm nghiên cứu
hỗ trợ.
Công cụ thu thập số liệu
Edinburg Postpartum Depression Scale
(EPDS): Đây là thang điểm dùng để đánh giá
các triệu chứng trầm cảm của bà mẹ trong thời
gian sau sinh. Thang điểm gồm 10 câu hỏi, mỗi
câu hỏi có 4 lựa chọn với điểm số từ 0 đến 3, bà
mẹ đánh dấu vào một câu mà mình lựa chọn.
Tổng số điểm sẽ được ghi nhận (từ 0 đến 30
điểm). Những bà mẹ nào có số điểm ≥ 13 được
chẩn đoán là trầm cảm sau sinh(4). Thang EPDS
tập trung vào các triệu chứng trầm cảm đặc hiệu
của thời gian sau sinh. Độ nhạy và độ chuyên
biệt tốt đã được báo cáo tại Anh quốc(2,1).
Bảng câu hỏi: đã được soạn sẳn bao gồm về
đặc tính dân số học của các bà mẹ, những
nghịch cảnh trước sinh, chất lượng sống, chất
lượng và số lượng mạng lưới nâng đỡ xã hội
(nguồn lực, cấu trúc gia đình).
Xây dựng bảng câu hỏi phỏng vấn để giúp
thực hiện phân tích định tính trầm cảm và yêu
cầu trợ giúp và hỗ trợ y tế / tâm lý.
Nội dung phỏng vấn (phụ lục 1, 2, 3)
Khái niệm và thuật ngữ
Trầm cảm (F32): Theo bảng phân loại DSM-
IV và ICD-10: trong các giai đoạn trầm cảm điển
hình nhẹ, trung bình, hoặc nặng bệnh nhân bị
giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt
động. Khả năng thích thú, quan tâm và tập
trung đều giảm sút và thường mệt mỏi rõ rệt dù
chỉ là một cố gắng rất nhỏ sau khi cố gắng dù là
rất ít. Thường có rối loạn giấc ngủ và ăn kém
ngon miệng, sút cân và khả năng tình dục
kém.Tính tự trọng và sự tự tin hầu như luôn
luôn giảm sút.
Phỏng vấn: Là một phương pháp thu thập
thông tin bằng cách trưng cầu ý kiến thông qua
trò chuyện. Trong phỏng vấn lâm sàng, không
chỉ quan tâm đến chất lượng nội dung các câu
trả lời (các cử điệu, ý kiến, thái độ, liên tưởng tư
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 73
duy) mà cả những hành vi cụ thể của các bà
mẹ (giọng nói, điệu bộ, nhầm lẫn)(10).
Phân tích số liệu
Phân tích kết quả dựa trên phần mềm
SPSS 16.0.
Chúng tôi sử dụng số liệu thống kê dựa trên
các triệu chứng trầm cảm khác nhau được quan
sát. Sau đó chúng tôi so sánh kết quả thu được
của các đối tượng được phỏng vấn. Phân tích
định tính sẽ giúp phân tích chi tiết hơn về các
triệu chứng trầm cảm khác nhau này và các yêu
cầu trợ giúp và hỗ trợ tâm lý.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Kết quả xử lý với phần mềm SPSS 16.0
Đặc điểm dịch tễ học
Tuổi trung bình của bà mẹ trong khảo sát:
25,67 ± 5,575 (18 – 41).
72,9% bà mẹ ở lứa tuổi 20 – 30.
81,2% bà mẹ ở tỉnh. 77,1% có trình độ học
vấn ≤ cấp 2.
45,8% bà mẹ có thai ngoài ý muốn. 75% bà
mẹ sinh con đầu lòng.
Tuổi thai trung bình 30,21± 2,721 (25 – 36).
Cân nặng lúc sinh trung bình 1525,62 ±
342,705 (1000 – 2400).
Đặc điểm Dịch tễ N = 48 (%)
< 20 6 (12,5)
20 - 30 35 (72,9) Tuổi của mẹ
> 30 7 (14,6)
Tỉnh 39 (81,2)
Nơi ở
Thành phố 9 (18,8)
Con so 36 (75)
Số con
Con rạ 12 (25)
≤ cấp 2 37 (77,1) Trình độ văn hóa của
mẹ ≥ cấp 3 11 (22,9)
Có chuẩn bị 26 (54,2)
Lần này có thai
Ngoài ý muốn 22 (45,8)
Trí thức 4 (8,3)
Công nhân 13 (27,1)
Nông dân 6 (12,5)
Tự do 8 (35,4)
Nghề nghiệp
Nội trợ 17 (35,4)
Bảng 1: Đặc điểm dân số học
Mô tả các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý
trầm cảm
Trong lúc tiếp xúc có 87,5% các bà mẹ đã
khóc thật nhiều, họ luôn cảm thấy buồn và
không quan tâm đến những sự việc xung
quanh, không còn cảm thấy thích thú đối với
những hoạt động mà trước kia ưa thích như xem
phim, nghe nhạc
Họ không muốn ăn, luôn cảm thấy mệt mỏi
và cảm thấy bản thân vô giá trị hoặc có mặc cảm
tội lỗi. Họ cảm thấy bi quan về tương lai và có
suy nghĩ đến cái chết.
100% bà mẹ có rối loạn giấc ngủ, luôn cảm
thấy bồn chồn, lo âu, dễ tức giận.
Có 64.6% thiếu tự tin vào khả năng làm mẹ,
không muốn chăm sóc con hay sợ mình sẽ làm
hại đứa bé. 70,8% bà mẹ có thay đổi tính khí.
Bảng 2. Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý trầm cảm
Đặc điểm N = 48 (%)
Khóc Có 42 (87,5)
không 6 (12,5)
Thiếu tự tin vào Có 31 (64,6)
khả năng làm mẹ không 17 (35,4)
Thay đổi tính khí Có 34 (70,8)
không 14 (29,2)
Thái độ của bà mẹ
35,4% có thể nói dễ dàng các vấn đề của
mình. 41,7% khóc nhiều nhưng tỏ ra khép kín
hơn. 22,9% bà mẹ đau khổ đến mức thể hiện
hung bạo qua lời nói.
Các yếu tố có thể liên quan đến trầm cảm
của bà mẹ
Có 62,5% bà mẹ gặp khó khăn, đau khổ với
gia đình trong thời gian mang thai và sau khi
sinh. Trong đó có 6,2% bị gia đình chồng bắt
buộc li dị với lý do không có khả năng sinh con
tốt, sinh con trai.
6,2% bà mẹ có con sinh đôi chết. Trong
nghiên cứu của BS Lâm Xuân Điền ghi nhận tử
vong sơ sinh liên quan có ý nghĩa đến trầm cảm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 74
sau sinh(8).
50% có mối quan hệ xấu với chồng. Điều
này cũng phù hợp với nhận xét của tác giả
Glasser (Israel) và Johanson R (Anh) cho rằng sự
không hòa hợp trong hôn nhân ở sản phụ là
một trong những yếu tố dự báo tốt nhất hay có
liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện trầm cảm sau
sinh(8).
87,5% bà mẹ quá lo lắng cho sức khỏe của
con. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của
tác giả Glasser (Israel) cho rằng các vấn đề sức
khỏe kéo dài ở đứa con cũng là một trong
những yếu tố dự báo tốt nhất về sự xuất hiện
của trầm cảm sau sinh hay theo tác giả ManlKD
(USA) thì mẹ dễ bị trầm cảm sau sinh nếu trẻ sơ
sinh có >1 vấn đề phải khám đa khoa hay phải
nhập phòng cấp cứu dù chỉ 1 lần(8).
45,8% bà mẹ không mong muốn có con, điều
này cũng phù hợp với nhận định của tác giả
Neter E (USA) cho rằng những sản phụ cảm
thấy hài lòng với lần sanh này thì sẽ ít bị trầm
cảm hơn hoặc với tác giả Như Ngọc (VN) cho
rằng không mong đợi có liên quan có ý nghĩa
thống kê với trầm cảm sau sinh(8).
Có 70,8% bà mẹ thiếu sự nâng đỡ tâm lý.
75% bà mẹ có nhu cầu được trò chuyện tâm
sự trong đó 41.7% tâm sự riêng tư (nâng đỡ
tâm lý cá nhân). 27,1% bà mẹ mong được chia
sẻ với những bà mẹ khác (nâng đỡ tâm lý
nhóm). 6,2% bà mẹ mong được nâng đỡ tâm
lý cá nhân và nhóm.
Mức độ trầm cảm dựa trên thang lượng giá
EPDS
Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83
± 5,785 (5 – 28).
29,2% bà mẹ có EPDS <13 điểm. 70,8% bà mẹ
có EPDS ≥ 13 điểm.
27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.
Tỷ lệ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non
nằm viện
Chúng tôi thực hiện khảo sát trên 48 bà mẹ
có con sinh non đang nằm điều trị tại khoa sơ
sinh bệnh viện Nhi Đồng I qua bảng EPDS, số
bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm chiếm 70,8% (34 bà
mẹ). Trong nghiên cứu của Lương Bạch Lan
(2009) trầm cảm sau sinh của bà mẹ là 11,6%,
nhóm sản phụ có con gửi dưỡng nhi của
Nguyễn Mai Hạnh (2005)(9) là 29,6%, kết quả của
Lâm Xuân Điền (2002)(8) là 10,8%. Điều này có
thể do cách tiến hành nghiên cứu chọn mẩu của
chúng tôi, đây là các bà mẹ có con bệnh nặng
nằm phòng cấp cứu của khoa sơ sinh. Các bà mẹ
này có địa chỉ cư trú ở tỉnh là 81,2%, có nghĩa là
trẻ đã được sinh ra ở địa phương và trẻ bị cách
ly mẹ-con trước khi trẻ được nhập viện tại khoa
Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1. Cũng có thể do
căng thẳng của môi trường khoa Sơ sinh, sự
cách ly thể chất và sự cảm xúc của bà mẹ đối với
trẻ. Sinh ra một trẻ thiếu tháng là một cú sốc. Tất
cả công việc mang thai cũng như chuẩn bị cho
chuyển dạ và sự ra đời của đứa trẻ bị cắt đứt.
Đối với bà mẹ, đẻ non là một trải nghiệm đau
đớn và mặc cảm tội lỗi có thể dẫn bà mẹ tới trầm
cảm và tự đánh giá thấp mình(11). Sự ra đời và
nằm viện của một trẻ sinh non là sự đau khổ
tâm lý rất lớn cho bà mẹ. Bà mẹ đau buồn và tự
buộc tội mình. Đặc biệt sự thiếu nâng đỡ xã hội,
xung đột vợ chồng, gia đình và các biến cố gây
căng thẳng trong cuộc sống làm tăng có ý nghĩa
sự trầm cảm sau sinh(2).
Trong khảo sát của chúng tôi 13 bà mẹ có tư
tưởng tự tử chiếm 27,1% ít hơn tỷ lệ 41,2% của
Lâm Xuân Điền(8) nhưng là một thực trạng đáng
được quan tâm hỗ trợ kịp thời, nếu không được
phát hiện và điều trị, trầm cảm ở bà mẹ sau sinh
có thể làm tăng nguy cơ bệnh tâm thần và ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm thần và nhân cách
của trẻ trong tương lai.
KẾT LUẬN
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính đến
năm 2020, rối loạn ức chế tâm thần sẽ là nguyên
nhân đứng thứ hai trong gánh nặng về sức khỏe
toàn cầu(13). Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng điều
quan trọng là nhân viên y tế phát hiện các bà mẹ
trầm cảm để giúp cho sự tương tác mẹ - con tốt
hơn. Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này,
chúng tôi mong muốn các bà mẹ có con nằm ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 75
phòng cấp cứu khoa sơ sinh được tầm soát về
trầm cảm sau sinh thường quy hơn. Đồng thời
có sự chăm sóc thích hợp nhất cho các bà mẹ
này về y tế và tâm lý trong thời gian có con
đang nằm điều trị trong bệnh viện, cũng như
hướng dẫn tái khám, theo dõi sau khi ra viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Appleby L, Warner R, Whitton A, and Faragher B (1997), “A
controlled study of fluoxetine and cognitive-behavioural
counselling in the treatment of postnatal depression,” British
Medical Journal, vol. 314, no. 7085, pp. 932–936.
2. Cox JL., Holden JM., and Sagovsky R (1987), “Detection of
postnatal depression: development of the 10-item Edinburgh
Postnatal Depression Scale,” British Journal of Psychiatry, vol. 150,
pp. 782–786.
3. Đặng Phương Kiệt (2000). “Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện
đại.”. Tâm lý sản phụ sơ sinh và quan hệ sớm mẹ-con. Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin Hà Nội: 236 - 238.
4. Halbreich U. (2005), “The association between pregnancy
processes, preterm delivery, low birth weight, and postpartum
depressions—the need for interdisciplinary integration,”
American Journal of Obstetrics and Gynecology, vol. 193, no. 4, pp.
1312–1322.
5. Halbreich U. and Karkun S. (2006), “Cross-cultural and social
diversity of prevalence of postpartum depression and depressive
symptoms,” Journal of Affective Disorders, vol. 91, no. 2-3, pp. 97–
111.
6. Hall PL and Wittkowski (2006), “An exploration of negative
thoughts as a normal phenomenon after childbirth,” Journal of
Midwifery and Women's Health A, vol. 51, no. 5, pp. 321–330.
7. Jason J et al. (1983), “Homicide as a cause of pediatric mortality
in the United”, Pediatric,72.
8. Lâm Xuân Điền, Lê Quốc Nam. (2002), “Khảo sát tỉ lệ rối loạn
trầm cảm sau sanh ở các sản phụ đến sanh tại bệnh viện Từ Dũ”.
Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học năm 2002 Bệnh viện
Tâm Thần TPHCM.
9. Nguyễn Mai Hạnh. (2005), “Yếu tố nguy cơ của Trầm cảm sau
sinh”. Luận án tốt nghiệp chuyên khoa II Trường Đại Học Y
Dược Tp.HCM.
10. Vũ Dũng (2008) “Từ điển Tâm lý học” Viện khoa học xã hội Việt
Nam- Viện tâm lý học 619-620
11. Vũ Thị Chín (1997) “Bước đầu tìm hiều tâm lý sản phụ và quan hệ
sớm mẹ con ở Việt Nam ”; 1997:4.12:221-341.
12. Wisner KL, Parry BL, and Piontek CM (2002), “Postpartum
depression,” The New England Journal of Medicine, vol. 347, no. 3,
pp. 194–199.
13. World Health Organization. (2001), “World Health Report.
Mental Health: New Understanding, New Hope.” Geneva:
World Health Organization.