Mở đầu: Suy thận cấp (STC) là biến chứng thường gặp trong khoa Hồi sức và 10-70% cần liệu pháp thay
thế thận. Lọc máu liên tục (CRRT) là một phương pháp thay thế thận được chọn khá an toàn và hiệu quả trên bn
STC có huyết động không ổn định.
Mục tiêu: Nhận xét vai trò của lọc máu liên tục (CRRT) trong điều trị suy thận cấp tại khoa Hồi sức tích
cực, bệnh viện 115 trong 6 tháng năm 2009.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu trên 32 bn STC có chỉ định điều trị
thay thế thận.
Kết quả: Chúng tôi có 32 bn (20 nam, 12 nữ, tuổi trung bình 64) STC, với 50% STC thể thiểu niệu, trung
vị của điểm APACHE II cao (27 điểm), 71,9% có thở máy và 65,6% phải dùng vận mạch. Nhiễm khuẩn huyết/
sốc nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng đầu (65,6%) gây suy thận cấp. Ba mươi hai bn này được thực hiện 52 lần
CRRT, tống thời gian lọc máu 1604 giờ,thời gian lọc máu trung bình ở mỗi bn 50,12 giờ. Thời gian sử dụng
trung bình của 1 quả lọc là 30,84 giờ. Kháng đông sử dụng là heparin chuẩn 40 lượt (76,9%). Trong quá trình
CRRT, tình trạng huyết động cải thiện dần (huyết áp tăng và nhu cầu thuốc vận mạch giảm dần, thể tích nước
tiểu tăng lên) sau 24 giờ. BUN, creatinin huyết thanh về bình thường sau12 giờ. Ion đồ, thăng bằng kiềm toan
được điều chỉnh về bình thường sau 24 giờ. Khi kết thúc CRRT, chúng tôi có 14 trường hợp (43,8%) sống
chuyển khoa khác.
Kết luận: Việc chỉ định CRRT kịp thời, cùng với đội ngũ tiến hành CRRT có kinh nghiệm và các phương
tiện hồi sức khác giúp cho bn nặng có rối loạn huyết động học ở khoa Hồi sức thêm cơ hội được cứu sống.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của lọc máu liên tục trong điều trị suy thận cấp tại khoa Hồi sức tích cực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 453
VAI TRÒ CỦA LỌC MÁU LIÊN TỤC TRONG ĐIỀU TRỊ SUY THẬN CẤP
TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC
Lê Thị Mỹ Duyên *, Trần Thị Bích Hương**
TÓM TẮT
Mở đầu: Suy thận cấp (STC) là biến chứng thường gặp trong khoa Hồi sức và 10-70% cần liệu pháp thay
thế thận. Lọc máu liên tục (CRRT) là một phương pháp thay thế thận được chọn khá an toàn và hiệu quả trên bn
STC có huyết động không ổn định.
Mục tiêu: Nhận xét vai trò của lọc máu liên tục (CRRT) trong điều trị suy thận cấp tại khoa Hồi sức tích
cực, bệnh viện 115 trong 6 tháng năm 2009.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu trên 32 bn STC có chỉ định điều trị
thay thế thận.
Kết quả: Chúng tôi có 32 bn (20 nam, 12 nữ, tuổi trung bình 64) STC, với 50% STC thể thiểu niệu, trung
vị của điểm APACHE II cao (27 điểm), 71,9% có thở máy và 65,6% phải dùng vận mạch. Nhiễm khuẩn huyết/
sốc nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng đầu (65,6%) gây suy thận cấp. Ba mươi hai bn này được thực hiện 52 lần
CRRT, tống thời gian lọc máu 1604 giờ,thời gian lọc máu trung bình ở mỗi bn 50,12 giờ. Thời gian sử dụng
trung bình của 1 quả lọc là 30,84 giờ. Kháng đông sử dụng là heparin chuẩn 40 lượt (76,9%). Trong quá trình
CRRT, tình trạng huyết động cải thiện dần (huyết áp tăng và nhu cầu thuốc vận mạch giảm dần, thể tích nước
tiểu tăng lên) sau 24 giờ. BUN, creatinin huyết thanh về bình thường sau12 giờ. Ion đồ, thăng bằng kiềm toan
được điều chỉnh về bình thường sau 24 giờ. Khi kết thúc CRRT, chúng tôi có 14 trường hợp (43,8%) sống
chuyển khoa khác.
Kết luận: Việc chỉ định CRRT kịp thời, cùng với đội ngũ tiến hành CRRT có kinh nghiệm và các phương
tiện hồi sức khác giúp cho bn nặng có rối loạn huyết động học ở khoa Hồi sức thêm cơ hội được cứu sống.
Từ khóa: Lọc máu liên tục, suy thận cấp, khoa hồi sức tích cực (ICU).
ABSTRACT
THE ROLE OF THE CONTINUOUS RENAL REPLACEMENT THERAPY IN ACUTE RENAL FAILURE
TREATMENT IN THE INTENSIVE CARE UNIT
Le Thi My Duyen, Tran thi Bich Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 453 - 460
Background: Acute renal failure (ARF) is the most common complication in the Intensive Care Unit, in
which 10-70% of them need renal replacement therapy. The Continuous Renal Replacement Therapy (CRRT) is
the safest and effective renal replacement therapy to be used in ARF and unstable hemodynamic patients.
Objectives: To evaluate the role of CRRT in ARF in the ICU of People 115 Hospital over 6 months of year
2009.
Methods: A cohort, prospective study was conducted in 32 patients ARF indicated CRRT.
Results: We recruited 32 ARF patients (20 male, 12 female, mean age 64), with 50% nonoliguric ARF, high
median of APACHE II score (27), 71.9% on mechanical ventilation and 65.6% on vasopressor support. Sepsis/
septic shock were the major causes of ARF. We preceded 52 times CRRT over 32 patients; with total dialysis time
* Khoa Hồi sức tích cực, bệnh viện Nhân Dân 115, ** Bộ môn Nội, Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: BS Lê Thị Mỹ Duyên ĐT: 0918912388 Email: myduyen115@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 454
1604 h, mean dialysis time per patient 50.12h. Mean dialyzer time was 30.84h, 76.9% patients used heparin. The
hemodynamic status improved gradually (increased mean blood pressure, decreased number of vasopressor used,
increased urine output) in 24h post CCRT. BUN, serum creatinin were controlled after 12h, serum ionogram,
acid base disturbance were normalized after 24h of CRRT. By the end of treatment, 14 (43.8%) patients survived
and were transferred to other wards
Conclusion: The timely indication of CRRT, the CRRT experienced team combined with other resuscitated
means offered more survival opportunities to severe, unstable hemodynamic patients.
Keywords: Continuous Renal Replacement Therapy, CRRT), acute renal failure (ARF), Intensive Care
Unit (ICU)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận cấp (STC) là một hội chứng hoặc
biến chứng gặp ngoài cộng đồng, trong bệnh
viện, nói chung, hoặc tại khoa hồi sức, nói riêng.
Nếu tỷ lệ STC trong bệnh viện là 5-7%, thì tỷ lệ
STC tại khoa Hồi sức sẽ cao hơn (30%-60%) và tỉ
lệ tử vong ở nhóm bn này cũng cao (30 -
80%)(4,7,15). Tỷ lệ tử vong tại khoa Hồi sức tùy
thuộc vào từng loại hồi sức (nội khoa, ngoại
khoa, phẫu thuật tim...) và tùy thuộc vào số cơ
quan tổn thương ngoài thận. Khác với suy thận
mạn, suy thận cấp có khả năng hồi phục nếu
được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Xu
hướng hiện nay là tiến hành sớm liệu pháp thay
thế thận để duy trì sự ổn định nội môi, và phòng
tránh các biến chứng của suy thận cấp đe dọa
tính mạng bn(2,20,21). So với lọc máu ngắt quãng
(Intermittent hemodialysis, IHD) và lọc màng
bụng (Peritoneal dialysis, PD), lọc máu liên tục
(Continuous Renal Replacement Therapy,
CRRT) là phương pháp điều trị thay thế thận
được ưa chọn hiện nay trên bn STC ở khoa Hồi
Sức (80- 90%) nhất là trên bn có rối loạn huyết
động(18). Trên thế giới, CRRT đã được ứng dụng
rộng rãi, trở nên phổ biến trong các khoa Hồi
sức. Tại Việt Nam, CRRT mới được áp dụng
trong những năm gần đây trong các khoa hồi
sức tại 1 số bệnh viện(11). Tại BV 115, mặc dù
CRRT được áp dụng từ năm 2003 nhưng chúng
tôi chưa có đánh giá kết quả một cách khoa học
và đó là mục tiêu của đề tài này.
Câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi là liệu
CRRT có cải thiện tình trạng rối loạn huyết động
cũng như điều chỉnh được các rối loạn do suy
thận cấp gây ra hay không?
Mục tiêu nghiên cứu
Chúng tôi có 2 mục tiêu chuyên biệt
- Khảo sát đặc điểm của bn STC được lọc
máu liên tục tại khoa Hồi sức
- Đánh giá hiệu quả của lọc máu liên tục
trong điều trị suy thận cấp ở khoa Hồi sức.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thiết kế đoàn hệ, tiến cứu.
Trong thời gian 6 tháng, từ tháng 6 đến tháng
12, năm 2009, chúng tôi có 32 BN STC được tiến
hành CRRT tại khoa Hồi Sức, Bệnh viện 115.
Các định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu:
- Tổn thương thận cấp được chẩn đoán
dựa theo tiêu chuẩn RIFLE(6) dựa vào nước
tiểu và creatinine huyết tương, trong đó suy
thận cấp khi bn được xếp từ giai đoạn F trong
phân loại này.
Mức độ Tiêu chuẩn độ lọc cầu thận
(GFR)
Cung lượng
nước tiểu
R Creatinin tăng 1,5 lần∗ hoặc GFR
giảm > 25%
< 0,5 ml/kg/giờ x
6 giờ
I Creatinin tăng 2 lần hoặc GFR
giảm > 50%
< 0,5 ml/kg/giờ x
12 giờ
F Creatinin tăng 3 lần hoặc GFR
giảm > 75% hoặc Creatinin ≥ 4
mg% với tăng cấp ≥ 0,5mg%
< 0,3 ml/kg/giờ x
24 giờ hay vô
niệu x 12 giờ
L Mất chức năng thận hoàn toàn > 4 tuần
E Nhu cầu trị liệu thay thế thận > 3 tháng
Hạ huyết áp khi huyết áp tâm thu
<90mmHg, hoặc huyết áp trung bình
<70mmHg hoặc huyết áp tâm thu giảm trên
40% của giá trị nền.
- STC thể không thiểu niệu khi thể tích nước
tiểu trên 400ml trong 24 giờ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 455
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bn được
chỉ định CRRT dựa theo Chaturvedi M và
cs(10) như:
STC cần lọc máu (như (1) toan chuyển hóa
nặng không đáp ứng với điều trị nội khoa, (2)
rối loạn điện giải nặng như tăng kali, hạ natri
máu không đáp ứng điều trị nội khoa, (3) quá tải
tuần hoàn, phù phổi cấp, (4) BUN>100mg/dl,
Créatinine huyết thanh >10mg/dL) kèm theo rối
loạn huyết động.
- STC mà tình trạng tim mạch không dung
nạp với lọc máu ngắt quảng (nhồi máu cơ tim
cấp, suy tim kháng trị...)
- STC trong bệnh cảnh suy đa tạng, sốc
nhiễm khuẩn, ARDS
Phương tiện nghiên cứu: (1) máy lọc máu
liên tục (Prisma, hoặc Prisma flex); (2) màng lọc
AN 69 (polyacrylonitrile- methallyl- sulfonate),
diện tích màng 0,6 m2, kích thước lỗ màng 2,9
nm; (3) Dịch lọc dùng trong lọc máu là Hemosol
(dịch pha sẵn) của hãng Gambro; (4) kháng
đông cơ bản là heparin không phân đoạn. Nếu
có kèm rối loạn đông máu, bn sẽ không được
dùng kháng đông hoặc cân nhắc việc dùng
citrate kháng đông
Các dữ kiện thu thập bao gồm (1) lâm sàng
(sinh hiệu, thể tích nước tiểu, áp lực tĩnh mạch
trung tâm, liều và loại thuốc vận mạch, tình
trạng thông khí hỗ trợ), và (2) cận lâm sàng
(BUN, créatinine huyết thanh, ion đồ máu, khí
máu động mạch, công thức máu, PT, APTT,
INR, AST, ALT). Thời điểm thu thập:
- Lúc vào khoa Hồi sức.
- Lúc bắt đầu lọc máu liên tục.
- Trong quá trình lọc máu, khởi đầu (T0),
sau 4 giờ ( T4), sau 12 giờ ( T12), sau 24
giờ (T24).
- Khi kết thúc lọc máu.
Kết quả sau quá trình điều trị: sống chuyển
khoa khác, thông tin về lọc máu (số lần, thời
gian, thời điểm tiến hành...).
Biến số định lượng được trình bày dưới
dạng trung vị và tứ phân vị nếu không có phân
phối chuẩn. Biến số định tính được trình bày
dưới dạng trị số, tỉ lệ phần trăm. Dùng phép
kiểm phi tham số khi không có phân phối
chuẩn. P < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian 6 tháng, chúng tôi có 32 bn
được tiến hành CRRT tại khoa Hồi sức bệnh
viện 115, trong đó, 24 bn STC kèm hạ huyết áp
lúc khởi đầu lọc máu, 2 bn STC sau can thiệp
mạch vành do nhồi máu cơ tim cấp, 4 bn STC
trên nền suy tim nặng (trong đó có 2 ca kèm
tăng kali > 6,5mMol/L), 2 bn nhiễm trùng
huyết kèm vô niệu. Đặc điểm chung của mẫu
nghiên cứu được trình bày như bảng 1. Qua
phép kiểm Kolmogorov Smirnov, khảo sát tính
chuẩn các biến số dùng trong nghiên cứu, các
biến số của chúng tôi hầu hết đều không có
phân phối chuẩn.
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (n=32)
lúc vào Hồi sức
Đặc điểm Trung vị (25%, 75%)
Tuổi 64 24 - 88
Điểm APACHE II 27 18 - 45
Số cơ quan suy 3 1 - 6
Số ca Phần
trăm
Nam giới 20 62,5
Thiểu niệu 16 50
Thở máy 23 71,9
Dùng vận mạch 21 65,6
Sốc nhiễm khuẩn 18 56,2
Nguyên nhân STC (nhiễm khuẩn huyết) 21 65,6
Ngõ vào nhiễm khuẩn (hô hấp) 8 25
Bảng 2: Tình trạng bn lúc khởi đầu CRRT
Tình trạng Số ca Phần trăm
Hạ huyết áp (HA trung bình <
80mmHg)
25 78,1
Toan chuyển hóa nặng (pH < 7,1) 7 21,8
Suy đa cơ quan 21 65,6
Thiểu niệu đến vô niệu 16 50
BUN, creatinin huyết thanh tăng * 31 96,8
Tăng Kali máu > 6,5 mEq/l hoặc tăng
nhanh
4 12,5
Hạ Natri máu nặng (< 115 mEq/l) 2 6,2
Quá tải thể tích 3 9,4
(*) BUN >20mg/dL, creatinine huyết thanh>1,5mg/dL
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 456
Thời gian từ lúc bn vào khoa Hồi sức đến lúc
tiến hành CRRT trung bình là 13,25 ± 9,2 giờ.
Chúng tôi có 1 bn từ khoa khác chuyển đến với
bệnh cảnh sốc nhiễm khuẩn suy đa tạng, trường
hợp này CRRT được tiến hành sớm nhất (1,5
giờ) và một trường hợp CRRT được tiến hành
muộn nhất (38 giờ). Đa số các trường hợp tiến
hành CRRT khi có BUN, Creatinin huyết thanh
tăng (96,8%), kế đến là suy đa cơ quan 65,6%;
thiểu niệu vô niệu 50%. Chúng tôi có 2 trường
hợp sốc nhiễm khuẩn được CRRT khi BUN và
creatinin huyết thanh chưa tăng nhưng bn có
thiểu niệu (giai đoạn R theo phân loại RIFLE).
Chúng tôi thực hiện 52 lần CRRT trên 32 bn
với tổng thời gian 1604 giờ. Thời gian CRRT
trung bình ở mỗi bn là 50,12 giờ. Phương thức
của CRRT được dùng là 80,76%. CVVHDF
(continous veno-venous hemodiafiltration) và
19,24% CVVH (continuous veno-venous
hemofiltration). Thời gian trung bình sử dụng 1
quả lọc là 30,84 giờ. Trong 52 lần CRRT, 76,9%
bn sử dụng kháng đông là heparin không phân
đoạn (40 lượt), 5,77% dùng citrate, 17,3% không
dùng kháng đông.
98.5
99
99.5
100
100.5
101
101.5
102
102.5
0
20
40
60
80
100
120
140
Trước
LMLT
12 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
n/
ph
)
p
(m
m
H
g)
HA max
HA min
HA tb
ch
Biểu đồ 1: Thay đổi Mạch, huyết áp trong quá trình CRRT
Biến đổi về lâm sàng trong quá trình CRRT
Sau tiến hành CRRT, sinh hiệu của bn được
cải thiện. Huyết áp từ chỗ thấp nhất (50% bn có
huyết áp trung bình 65mmHg) tại thời điểm vào
khoa Hồi sức, đến cải thiện rõ sau 12 giờ CRRT.
Sau 24 giờ, huyết áp về giới hạn bình thường, ổn
định và sau 48giờ, 57,1% bn ngưng được vận
mạch. Thể tích nước tiểu tăng dần từ 30,5 ml/giờ
lúc bắt đầu CRRT đến 84,5 và 89,4 ml/giờ sau 48
và 72 giờ. Sau 72 giờ CRRT, chúng tôi không còn
trường hợp nào vô niệu.
Bảng 3: Sử dụng vận mạch trong quá trình CRRT
Thời điểm CRRT Bắt đầu 12 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Tổng số ca 32 32 32 32 30
Số ca dùng vận
mạch
21 21 16 9 7
Thời điểm CRRT Bắt đầu 12 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Loại vận mạch
+ Dopamin 20 20 16 9 7
+ Noradrenalin 12 9 7 5 6
+ Adrenalin 1 1 0 1 1
Biến đổi về cận lâm sàng trong quá trình
CRRT
Tại thời điểm bắt đầu CRRT, BUN và
Creatinin huyết thanh tăng đáng kể so với lúc
mới vào Hồi sức (p < 0,001). Chúng tôi có 14 ca
BUN > 70 mg%, 10 ca creatinin huyết thanh
> 7 mg%. Và có 1 ca BUN < 20 mg%,1 ca
Creatinin huyết thanh < 1,5 mg% (2 trường hợp
này đều thiểu niệu, trong bệnh cảnh sốc nhiễm
khuẩn). BUN và Creatinin huyết thanh giảm
nhanh sau 12 giờ làm CRRT, có xu hướng về
giới hạn bình thường sau 24 giờ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 457
0
1
2
3
4
5
6
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Bắt đầu
LMLT
C
re
at
in
in
(m
g%
)
B
U
N
(m
g%
)
BUN
Creatinin
Biểu đồ 2: Biến đổi BUN và Creatinin huyết thanh trong quá trình CRRT
0
1
2
3
4
5
6
133
133.5
134
134.5
135
135.5
136
Trước LMLT
K
(
m
E
q/
l)
N
a
(m
E
q/
l)
Na
K
Biểu đồ 3: Thay đổi điện giải trong quá trình CRRT
Lúc bắt đầu CRRT, 40,6% bn có rối loạn
Natri, Kali huyết thanh với 40,63% (13/32) tăng
Kali huyết thanh và 34,37% (11/32) hạ Natri
huyết thanh. Trong đó, 2 bn có tăng Kali huyết
thanh > 6,5 mEq/L, 1 bn Natri huyết thanh 113
mEq/L. Sau 12 giờ CRRT Natri, Kali huyết thanh
được điều chỉnh về bình thường.
Trước CRRT, 78,2% (25/32) bn bị nhiễm toan,
với toan chuyển hóa chiếm đa số 68,8% (22/32),
trong đó, 31,3% bn (10/32) toan chuyển hóa nặng
(pH < 7,2). Hai mươi bốn giờ sau khi tiến hành
CRRT, tình trạng toan chuyển hóa cải thiện rõ,
và 71,9% khí máu động mạch về trong giới hạn
bình thường.
Bảng 3: Tình trạng lúc kết thúc CRRT
Tình trạng Số ca %
Huyết động ổn 14/21 66,6
Nước tiểu tăng (> 400
ml/ngày)
27/32 84,3
BUN, Creatinin giảm 30/32 93,7
Điện giải đồ ổn định 32/32 100
Toan chuyển hóa cải thiện 19/25 76
Cải thiện
Quá tải thể tích cải thiện 3/3 100
Nặng hơn 5/32 15,6 Chưa cải
thiện Xin về 2/32 6,3
Sau quá trình tiến hành CRRT, chúng tôi có
14 bn sống chuyển khoa khác (43,8%). Chúng tôi
ghi nhận những bn có kèm suy hô hấp phải thở
máy, huyết áp trung bình trước lọc máu < 80
mmHg, suy 3 cơ quan trở lên, toan chuyển hóa
nặng có nguy cơ tử vong cao (p < 0,05).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 458
Trước CRRT
0
20
40
60
80
Toan
chuyển
hóa
Bình
thường Toan hô hấp
68,8%
15,6% 12,5%
18,8%
71,9%
9,4%
Biểu đồ 4: So sánh khí máu động mạch trước và sau 24 giờ CRRT
Bảng 4: So sánh các yếu tố giữa nhóm sống và tử
vong
Các yếu tố Tử vong
(N =18)
Sống
(N =14)
So sánh tỉ lệ n, % n, %
p
Thiểu niệu 10 (55,6) 6 (42,9) 0,48
Sử dụng vận mạch 14 (77,8) 7 (50) 0,07
HA trung bình lúc CRRT< 80
mmHg
16 (88,9) 8 (57,1) 0,005*
Thở máy 16 (88,9) 7 (50) 0,013*
Toan chuyển hóa nặng 7 (38,9) 3 (21,4) 0,034*
Thời gian bắt đầu lọc máu <6
giờ sau nhập Hồi sức
3(16,7) 5 (35,7) 0,005*
So sánh trung bình
Tuổi trung bình 66,06 ± 3,5 60,57± 2,7 0,16
Số cơ quan suy 3,07 ± 0,7 2,18 ± 0,87 0,006*
Creatinin huyết thanh lúc
vào hồi sức
3,54 ± 1,66 4,19 ± 3,21 0,98
BUN lúc vào hồi sức 66,16 ± 49,1 69,29 ± 50,8 0,64
APACHE II 29,5 ± 6,15 26,29 ± 6,37 0,23
(*) có ý nghĩa thống kê
BÀN LUẬN
Theo Mehta R(9), “suy thận cấp (STC) đơn
thuần” thường ít gặp ở khoa hồi sức và có tỉ lệ
tử vong từ < 5% đến 10%. Trong khi STC kèm
suy cơ quan khác thường vào khoa Hồi sức và
có tỷ lệ tử vong cao từ 50 đến 70%. Do vậy, STC
ở khoa hồi sức thường là dạng bệnh nặng, xảy ra
trên bn lớn tuổi, có điểm APACHE II
cao(5,10,13,15,18), tỉ lệ thở máy và dùng vận mạch cao,
và thường nằm trong bệnh cảnh suy đa cơ quan.
Tại đây, sốc nhiễm khuẩn là bệnh cảnh hàng
đầu gây ra biến chứng STC 65,6% (tỉ lệ này của
chúng tôi cao hơn các nghiên cứu khác(6,15).
STC nặng có chỉ định điều trị thay thế thận,
khi các biện pháp điều trị nội khoa không còn
hiệu quả trong duy trì cân bằng nội môi. Lọc
máu ngắt quãng (IHD) có tốc độ rút máu lớn (>
200 ml/phút) và tốc độ thải dịch, chất tan nhanh
nên được tiến hành trên bn STC có huyết động
ổn định. Nguy cơ lớn nhất của IHD là gây hạ
huyết áp. Theo O'Reilly P và Tolwani A(12) tỉ lệ hạ
huyết áp ở bn IHD là 20 – 30%. Điều đáng lo
ngại là hạ huyết áp là nguyên nhân tử vong ở bn
IHD. Như vậy, việc sử dụng IHD sẽ bị giới hạn
khi bn có hạ huyết áp, rối loạn huyết động phải
sử dụng vận mạch, nhất là BN ở khoa Hồi sức.
Theo Silverter và CS(18), tại khoa hồi sức có
khoảng 70 % bn STC cần điều trị thay thế thận,
trong đó 80-90% sử dung CRRT. CRRT với tốc
độ rút máu thấp (thậm chí chỉ cần 60 – 80
ml/phút), tốc độ thải dịch từ từ và liên tục nên có
thể tiến hành trên bn đang có rối loạn huyết
động. Tại thời điểm tiến hành CRRT, chúng tôi
có 21 ca (65,6%) phải sử dụng vận mạch, có 25 ca
(78,1%) huyết áp trung bình < 80 mmHg, và có 2
ca huyết áp không đo được. Trong quá trình lọc
máu, huyết áp ổn định dần, sau 48 giờ CRRT
chúng tôi có 12 ca (57,1%) đã ngưng được vận
mạch. Tỉ lệ tử vong của nhóm dùng vận mạch là
66,7% (14/21). Như vậy, nếu không có CRRT thì
tỉ lệ tử vong có thể lên đến100% trong điều kiện
huyết áp trung bình khá thấp, không cho phép
thực hiện IHD. Phần lớn các tác giả đều công
nhận, CRRT cải thiện nhanh và ổn định huyết
động, rút ngắn thời gian dùng vận mạch(3,10).
CRRT góp phần điều chỉnh các bất thường về
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 459
sinh hóa trong 24 giờ đầu phù hợp, gần giống
chức năng sinh lý của thận. Chúng tôi nhận thấy
BUN, creatinin, Kali huyết thanh được điều
chỉnh nhanh trong 12 giờ, toan chuyển hóa cải
thiện sau 24 giờ.
Tuy nhiên, hiệu quả của CRRT đối với
sống còn trên bn suy thận cấp còn nhiều tranh
cãi. Điều này theo chúng tôi là do sự thiếu
đồng bộ về tiêu chuẩn chẩn đoán làm kết quả
trong các nghiên cứu không đồng nhất, rất khó
so sánh. Barton và CS tìm thấy mối liên quan
giữa cải thiện sống còn với số năm kinh
nghiệm thực hành CRRT(1). Nhóm bn chúng tôi
khi tiến hành CRRT trong vòng 6 giờ sau nhập
Hồi Sức, có tỷ lệ tử vong thấp hơn nhóm tiến
hành trễ. Đa số các tác giả đều công nhận tiến
hành CRRT sớm sẽ giảm tỉ lệ tử vong. Song
tiêu chuẩn “sớm” trong các nghiên cứu cũng
chưa thống nhât. Cho đến nay, vẫn chưa có
đồng thuận nào của Thận học hoặc Hồi sức về
thời điểm cụ thể tiến hành CRRT.
Shahawy A nghiên cứu đánh giá độ nặng
của 179 bn suy thận cấp bằng bảng điểm
APACHE II thấy APACHE II > 26 điểm thì
không bn nào sống sót (17). Bn của chúng tôi
APACHE II trung bình 28,09 ± 6,36, 50% bn có
APACHE II là 27, khi được tiến hành CRRT,
chúng tôi có tỷ lệ sống và chuyển khoa khác là
43,8%. Con số này chứng minh vai trò hỗ trợ
quan trọng của CRRT trong hồi sức Thận học.
KẾT LUẬN
Qua kết quả của 32 bn lọc máu liên tục
(CRRT) tại khoa Hồi Sức bệnh viện 115, chúng
tôi nhận thấy CRRT giữ vai trò quan trọng trên
bn STC có rối loạn huyết động,kèm suy đa cơ
quan. CRRT giúp cải thiện và duy trì huyết động
ổn định, kiểm soát tốt các rối loạn điện giải, cân
bằng kiềm toan trong vòng 2