Đặt vấn đề: Biến chứng phổi sau phẫu thuật bụng là thường thấy và thường liên quan đến bệnh tật và tử
vong và kéo dài ngày nằm viện.
Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu của nghiên cứu là xem xét những biến chứng phổi nào thường xảy ra sau
phẫu thuật bụng, những yếu tố nguy cơ tiên lượng biến chứng phổi sau phẫu thuật bụng.
Đối tượng – phương pháp: Tất cả bệnh nhân phẫu thuật bụng, nhập săn sóc đặc biệt tại bệnh viện Bình
Dân, trong thời gian từ 6/2009- 5/2010.Nghiên cứu tiền cứu.
Kết quả/bàn luận: Trong thời gian một năm, có 170 bệnh nhân phẫu thuật bụng phải nằm lại săn sóc đặc
biệt, trong đó có 48 bệnh nhân có biến chứng phổi hậu phẫu chiếm tỉ lệ 28,24%, tử vong 52,8%. Đa số biến
chứng phổi gặp ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu. Những biến chứng phổi thường gặp sau phẫu thuật bụng là
suy hô hấp phải thở máy, viêm phổi suy hô hấp, viêm phổi, tổn thương phổi cấp, tràn dịch màng phổi, xẹp phổi, tỉ
lệ tử vong cao ở bệnh nhân tổn thương phổi cấp và suy hô hấp phải thở máy kéo dài. Những yếu tố nguy cơ được
xác định là tình trạng sức khỏe bệnh nhân, phẫu thuật cấp cứu, phẫu thuật kéo dài và phẫu thuật nhiều lần.
Kết luận: Những yếu tố nguy cơ liên quan đến phẫu thuật và bệnh nhân đã được xác định, là yếu tố góp
phần tăng biến chứng phổi hậu phẫu, suy hô hấp sau phẫu thuật bụng là biến chứng phổi gây tử vong cao. Để
giảm tần xuất biến chứng phổi hậu phẫu cần điều chỉnh tích cực các yếu tố liên quan đến bệnh nhân trước, trong
và sau phẫu thuật cũng như cần bác sĩ gây mê và phẫu thuật có kinh nghiệm để phẫu thuật cho những bệnh
nhân có nguy cơ cao biến chứng phổi sau phẫu thuật.
10 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng phổi hậu phẫu ở bệnh nhân phẫu thuật bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 310
BIẾN CHỨNG PHỔI HẬU PHẪU Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT BỤNG
Lê Thị Hồng*, Phạm Thị Nga*, Nguyễn Cao Thúy Hằng*, Hồ Thị Hòa Bình*, Nguyễn Thanh Phương*,
Nguyễn Mạnh Tiến*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Biến chứng phổi sau phẫu thuật bụng là thường thấy và thường liên quan đến bệnh tật và tử
vong và kéo dài ngày nằm viện.
Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu của nghiên cứu là xem xét những biến chứng phổi nào thường xảy ra sau
phẫu thuật bụng, những yếu tố nguy cơ tiên lượng biến chứng phổi sau phẫu thuật bụng.
Đối tượng – phương pháp: Tất cả bệnh nhân phẫu thuật bụng, nhập săn sóc đặc biệt tại bệnh viện Bình
Dân, trong thời gian từ 6/2009- 5/2010.Nghiên cứu tiền cứu.
Kết quả/bàn luận: Trong thời gian một năm, có 170 bệnh nhân phẫu thuật bụng phải nằm lại săn sóc đặc
biệt, trong đó có 48 bệnh nhân có biến chứng phổi hậu phẫu chiếm tỉ lệ 28,24%, tử vong 52,8%. Đa số biến
chứng phổi gặp ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu. Những biến chứng phổi thường gặp sau phẫu thuật bụng là
suy hô hấp phải thở máy, viêm phổi suy hô hấp, viêm phổi, tổn thương phổi cấp, tràn dịch màng phổi, xẹp phổi, tỉ
lệ tử vong cao ở bệnh nhân tổn thương phổi cấp và suy hô hấp phải thở máy kéo dài. Những yếu tố nguy cơ được
xác định là tình trạng sức khỏe bệnh nhân, phẫu thuật cấp cứu, phẫu thuật kéo dài và phẫu thuật nhiều lần.
Kết luận: Những yếu tố nguy cơ liên quan đến phẫu thuật và bệnh nhân đã được xác định, là yếu tố góp
phần tăng biến chứng phổi hậu phẫu, suy hô hấp sau phẫu thuật bụng là biến chứng phổi gây tử vong cao. Để
giảm tần xuất biến chứng phổi hậu phẫu cần điều chỉnh tích cực các yếu tố liên quan đến bệnh nhân trước, trong
và sau phẫu thuật cũng như cần bác sĩ gây mê và phẫu thuật có kinh nghiệm để phẫu thuật cho những bệnh
nhân có nguy cơ cao biến chứng phổi sau phẫu thuật.
Từ khóa: biến chứng phổi, phẫu thuật bụng, suy hô hấp, sau phẫu thuật.
ABSTRACT
PULMONARY COMPLICATION AFTER ABDOMINAL SURGERY
Le Thi Hong, Pham Thi Nga, Nguyen Cao Thuy Hang, Ho Thi Hoa Binh, Nguyen Thanh Phuong,
Nguyen Manh Tien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 310 – 319
Background: Pulmonary complications after abdominal surgery is common and often associated with
morbidity and mortality and prolonged hospital day.
Objective: The objective of this study was to examine the pulmonary complications that occur after
abdominal surgery and the risk factors of lung complications after abdominal surgery.
Method: Prospective study.
Results: During the period 6/2009- 5 / 2010, at Binh Dan hospital has 170 patients have abdominal surgery
ICU stay, including 48 patients with postoperative pulmonary complications account for rate of 28.24%,
mortality 52.8%. Most pulmonary complications in patients having emergency surgery. Common pulmonary
complications after abdominal surgery is respiratory ventilation, pneumonia, respiratory failure, pneumonia,
Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Mạnh Tiến ĐT: 0909313168 Email: tien902003@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 311
pulmonary lesions, pleural effusion, atelectasis, high mortality in patients with respiratory failure and prolonged
ventilation. These risk factors were identified as the health status of patients, emergency surgery, prolonged
surgery and reoperative.
Conclusions: The risk factors related to surgery and patients were identified as factors contributing to
increase postoperative pulmonary complications, respiratory failure after abdominal surgery is pulmonary
complications had fatal high. To decrease postoperative pulmonary complications need to adjust the positive
factors related to patients before, during and after surgery as well as the need anesthesiologist and surgical
experience for surgical patients at high risk for pulmonary complications after abdominal surgery.
Key words: Pulmonary complication, abdominal surgery, respiratory failure, postoperative.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự tiến bộ của phẫu thuật, gây mê và chăm
sóc chu phẫu cộng với tuổi thọ ngày càng tăng
của dân số làm gia tăng can thiệp phẫu thuật ở
những bệnh nhân có bệnh đi kèm. Phẫu thuật
bụng và gây mê toàn thân có ảnh hưởng đến hệ
hô hấp do giảm hoạt động cơ hoành và giảm
đáp ứng thông khí làm gia tăng nguy cơ tương
đối biến chứng phổi sau phẫu thuật như viêm
phổi, suy hô hấp xẹp phổi Những biến chứng
này làm tăng bệnh tật và tử vong liên quan đến
phẫu thuật làm kéo dài ngày nằm viện và tăng
chi phí điều trị. Thực tế tại bệnh viện Bình Dân,
những biến chứng phổi nào thường xảy ra sau
phẫu thuật bụng, có những yếu tố thuận lợi và
những yếu tố nguy cơ nào làm tăng biến chứng
này hay không chưa có nghiên cứu nào về vấn
đề này nên mục đích của nghiên cứu là nhận xét
những biến chứng phổi nào thường xảy ra sau
phẫu thuật bụng làm kéo dài thời gian điều trị
và tử vong, có những yếu tố thuận lợi nào góp
phần và những yếu tố nguy cơ đó có thể điều
chỉnh được hay không để từ đó có tiếp cận điều
trị phù hợp nhằm mục đích giảm tỉ lệ bệnh tật
và tử vong liên quan đến biến chứng này.
Tổng quan tài liệu
Những yếu tố liên quan đến biến chứng
phổi hậu phẫu bao gồm: những yếu tố liên
quan đến đến tình trạng sức khỏe bệnh nhân
trước phẫu thuật, những yếu tố liên quan đến
phẫu thuật và gây mê sự chăm sóc sau phẫu
thuật, và sự cộng hưởng những yếu tố này
quyết định các nguy cơ.
Tình trạng sức khỏe bệnh nhân ảnh hưởng
rất lớn trên sự phát triển các biến chứng phổi
sau phẫu thuật, những yếu tố liên quan đến
bệnh nhân bao gồm bệnh phổi phế quản tắc
nghẽn mãn tính, tuổi lớn, tình trạng khả năng
chức năng, tình trạng dinh dưỡng, hút thuốc lá
nhiều, điểm ASA cao,thời gian nằm viện trước
mỗ dài(7,9,18). Những yếu tố liên quan đến phẫu
thuật bao gồm phẫu thuật bụng trên, phẫu thuật
ngực, phẫu thuật cấp cứu, truyền máu trong lúc
phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, số lượng máu
mất(6,7,9,10,13). Đáp ứng miễn dịch sau phẫu thuật
cực kỳ phức tạp và có tổn thương tiền đông
máu và hậu quả ức chế miễn dịch. Những
cytokine tiền viêm đặc biệt là yếu tố hoại tử
bướu TNF α, interleukin-6 đóng vai trò chính
bởi vì vai trò của chúng trong hội chứng đáp
ứng viêm hệ thống và rối loạn chức năng đa cơ
quan sau chấn thương, phẫu thuật. Tất cả điều
này có thể gia tăng nhiễm khuẩn phổi và các
biến chứng khác sau phẫu thuật.
Đa số biến chứng phổi hậu phẫu phát triển
do kết quả của thay đổi thể tích phổi mà xảy ra
do do đáp ứng tới rối loạn chức năng của cơ hô
hấp và những thay đổi khác thuộc cơ học thành
ngực liên quan đến gây mê và phẫu thuật(6).
Thuốc gây mê hít hay gây mê qua đường
tĩnh mạch thường gây giảm trương lực cơ hô
hấp và giảm thể tích cặn chức năng (giảm
20%) kết quả là xẹp phổi xảy ra cả 2 thở tự
nhiên và thông khí cơ học. Gây mê toàn thân
có những hậu quả sinh học lên hệ thống hô
hấp, những hậu quả này tác động suốt quá
trình dẫn mê và kéo dài đến thời kỳ hậu phẫu.
Gây mê toàn thân giảm thể tích cặn chức năng
với xẹp phổi tùy thuộc vùng trên phổi thông
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 312
qua 3 cơ chế: đè ép mô phổi, sự hấp thu của
khí phế nang, và suy chức năng surfactant,
kết quả là mất cân bằng sự tưới máu và thông
khí dẫn đến gia tăng shunt, thông khí khoảng
chết và giảm oxy máu. Ngoài ra thuốc giảm
đau và các thuốc khác dùng quanh phẫu thuật
cũng ảnh hưởng đến trung khu điều hòa hô
hấp làm thay hoạt động đường thở trên và cơ
thành ngực, góp phần tăng biến chứng hô hấp
và sự truyền máu trong lúc phẫu thuật cũng
góp phần kết quả kém sau phẫu thuật.
Phẫu thuật bụng và ngực gây giảm lớn
dung tích phổi và giảm ít nhưng quan trọng
thể tích cặn chức năng mang yếu tố nguy cơ
cao nhất cho biến chứng phổi hậu phẫu(4,7).
Tần suất biến chứng phổi sau phẫu thuật
bụng khoảng 2-40%(7,13), biến chứng phổi xảy
ra khoảng 25-50% bệnh nhân sau cắt thực
quản, tần suất khác nhau rất nhiều tùy thuộc
vào loại phẫu thuật được hoàn tất và định
nghĩa những biến chứng phổi hậu phẫu. Xẹp
phổi là biến chứng thường thấy nhưng nó
không bao gồm trong nhiều nghiên cứu.
Phẫu thuật bụng là phẫu thuật gần cơ
hoành, phẫu thuật bụng trên liên quan đến rối
loạn chức năng cơ hoành hơn là bụng dưới(18)
đầu tiên là sự gián đoạn thuộc chức năng của cử
động cơ hô hấp gây ra bởi sự cắt,thứ hai là hậu
quả của đau sau phẫu thuật làm giới hạn cử
động hô hấp, thứ ba là sự ức chế phản xạ thần
kinh hoành và những sợi thần kinh khác mà cài
răng lược với cơ hô hấp, hậu quả là hoạt động
cơ hoành bị hạn chế. Theo sau phẫu thuật bụng
dung tích sống giảm 25% và quay trở về bình
thường vào ngày hậu phẫu thứ 3(6). Áp lực
xuyên cơ hoành giảm gần 70% trong ngày đầu
hậu phẫu và quay trở về bình thường ít nhất 1
tuần sau phẫu thuật. Giảm đau đủ sau phẫu
thuật không giảm sự suy giảm này(4,7).
Những định nghĩa: những biến chứng
phổi hậu phẫu được định nghĩa như: viêm
phế quản cấp, co thắt phế quản, xẹp phổi,
viêm phổi, suy hô hấp, tràn dịch màng phổi,
tràn khí màng phổi, thở máy kéo dài, tử vong
liên quan đến hô hấp(2,11,14).
Viêm phế quản cấp được xác định khi có sốt
> 38oC; ho khạc đàm; không có tổn thương trên x
quang phổi ngoại trừ có ran phế quản hay gia
tăng số lượng đàm và thay đổi màu sắc đàm đối
với bệnh nhân có ho trước phẫu thuật.
Co thắt phế quản được chần đoán khi có ran
rít khi nghe phổi.
Xẹp phổi được định nghĩa có tìm thấy hình
ảnh trên X quang hay nghe giảm âm phế bào với
nhiệt độ > 38oC.
Suy hô hấp là biến chứng phổi thường
thấy,đa số xảy ra gay sau phẫu thuật. Tiêu
chuẩn chẩn đoán suy hô hấp phải thở máy
trên 24h ngay sau phẫu thuật hay sự cần thiết
phải đặt nội khí quản và thở và thở máy 01h
sau phẫu thuật(7,10).
Viêm phổi: sự hiện diện của thâm nhiễm
mới trên phim x quang, cộng với 2 trong 3
tiêu chuẩn sau: sốt > 380 C, bạch cầu tăng,ho
khạc đàm hay tìm thấy vi sinh vật trong đàm
bằng nhuộm gram và cấy mà cần phải dùng
kháng sinh tĩnh mạch(2,11).
Ức chế hô hấp bao gồm ngừng hô hấp,
PaCO2 > 60mmHg và cần phải đặt nội
khí quản(11).
Thiết kết nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân sau phẫu thuật có biến
chứng phổi hậu phẫu như: xẹp phổi, viêm phổi
sau phẫu thuật, hội chứng nguy kịch hô hấp
cấp, suy hô hấp sau phẫu thuật nhập săn sóc
đặc biệt trong thời gian 1năm từ tháng năm từ
tháng 6-2009 đến 5-2010.Tiêu chuẩn loại trừ khó
thở do suy tim, khó thở do hội chứng khoang
bụng.
Những yếu tố được ghi nhận:
Tuổi.
Giới
Loại phẫu thuật (cấp cứu, chương trình,
phương pháp phẫu thuật, PT nội soi, mổ mở).
Thời gian phẫu thuật.
Phương pháp vô cảm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 313
Bệnh đi kèm.
Tiền sử hút thuốc lá.
Sự hiện diện của ống thông mũi dạ dày
ngay sau gây mê.
Biến chứng phổi xảy ra vào ngày hậu phẫu?
Thời gian nằm viện trước phẫu thuật.
Kết quả điều trị.
KẾT QUẢ
Từ tháng 6-2009 đến tháng 5-2010, khoa săn
sóc đặc biệt bệnh viện Bình Dân nhận 170 bệnh
nhân phẫu thuật bụng phải nằm lại săn sóc đặc
biệt, trong đó có 48 bệnh nhân có biến chứng
phổi hậu, chiếm tỉ lệ 28,24%.
Trong 48 ca phẫu thuật bụng có biến chứng
phổi nhậu phẫu bao gồm: phẫu thuật tiêu hóa
25 ca (tắc ruột, thủng dạ dày, viêm phúc mạc
hậu phẫu do dò tiêu hóa, thủng đại tràng), phẫu
thuật gan mật tụy 13ca (sạn đường mật, tắc mật,
viêm tụy hoại tử), phẫu thuật mạch máu 05
(phình động mạch chủ bụng), phẫu thuật niệu
có biến chứng liên quan đến phổi phải nằm lại
khoa 04 (chảy máu sau phẫu thuật:sạn san
hô,bướu thận) phẫu thuật do áp xe cơ thăng
01.Trong 48 bệnh nhân đó phẫu thuật chương
trình 11ca, phẫu thuật cấp cứu 37 ca, có tuổi
thấp nhất là 42 tuổi, cao nhất là 89 tuổi, nữ 21 ca
nam 27 ca, tử vong và nguy tử xin về 25/48
chiếm tỉ lệ 52,08%.
Yếu tố liên quan đến bệnh nhân: trong 48
ca, có 08 ca có COPD trước phẫu thuật, có 3
trong số đó nặng xin về; tuổi < 60 chỉ có 09 ca,
nặng xin về 04.Tuổi 60-90 có 39 ca nặng xin về
21 ca. Điểm ASA II 28 ca, ASA III 20 ca. Xét
nghiệm máu lúc bệnh nhân có biến chứng
phổi nằm lại săn sóc đặc biệt có albumin máu
giảm <30g ở 38 bệnh nhân.
Yếu tố liên quan đến phẫu thuật và gây mê,
đa số có thời gian phẫu thuật từ 1-2giờ, chỉ có 09
ca có thời gian phẫu thuật > 3 giờ. Về số lần
phẫu thuật trong 48 ca, có 19 ca phẫu thuật 2 lần
(xin về 10), có 05 ca phẫu thuật > 2 lần (xin về
04). Về vị trí phẫu thuật có 16 ca phẫu thuật
bụng trên và dưới rốn, 02 ca phẫu thuật bụng
trên và phẫu thuật nội soi lồng ngực, 03 ca phẫu
thuật nội soi ổ bụng, 01 ca đường mỗ dưới sườn
phải, 22 ca phẫu thuật bụng trên. Truyền máu
trong lúc phẫu thuật có: 11 ca, 11 ca đều có suy
hô hấp sau phẫu thuật và phải thở máy, có 05 ca
có viêm phổi và suy hô hấp, xin về 05 ca. Sốc
trong lúc phẫu thuật 05 ca (xin về 04). Sốc sau
phẫu thuật phải dùng thuốc vận mạch là 14 ca
(xin về 09).
Những biến chứng phổi sau phẫu thuật của
48 ca gặp tại săn sóc đặc biệt là suy hô hấp phải
thở máy: 43 ca, suy hô hấp và viêm phổi 17,
viêm phổi không suy hô hấp 02 ca, tràn dịch
màng phổi 05 ca (04 ca phẫu thuật tiêu hóa, 01
ca phẫu thuật gan mật, xin về 2), tổn thương
phổi cấp 03 (01 ca bị trong lúc đang phẫu thuật,
01 có liên quan đến mất máu và truyền máu, 01
ca do viêm phúc mạc hậu phẫu, xin về 03),
thuyên tắc mạch phổi 01, xẹp phổi 01, thở máy
kéo dài phải khai khí đạo 04ca (xin về 02). Thời
gian thở máy ngắn nhất 1 ngày (10 ca) dài nhất
45 ngày, hầu hết thở máy ngay sau phẫu thuật,
có 04 trường hợp thở máy ngày hậu phẫu 3.
Ống thông mũi dạ dày: hầu hết được đặt lúc
bệnh nhân nằm săn sóc đặc biệt vì bệnh nhân
đang thở máy nên phải nuôi ăn bằng ống, ngay
khi bệnh nhân được cai máy thường 24 h sau
bệnh nhân ăn được bằng miệng thì ống thông
mũi dạ dày được rút sớm.
Thời gian nằm viện trước phẫu thuật (tính từ
lúc nhập viện đến lúc phẫu thuật có biến chứng
phổi), ngắn nhất 1giờ, cao nhất 43 ngày.
Bảng 1: Tổng số ca phẫu thuật bụng có biến chứng
phổi và kết quả
Loại bệnh Phẫu thuật Cc xin về Ctrình xin về
Pt tiêu hóa 25 19 10 06 03
Pt gan mật
tụy
13 11 07 02 01
Pt mạch
máu
05 03 01 02 01
Pt niệu 04 01 01 03 01
Pt khác 01 01 00 00 00
Tổng số 48 37 19 11 06
Bảng 2: Phân bố theo tuổi và giới tính
Giới NAM NỮ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 314
Tuổi Tổng số
ca
xin về Tổng số
ca
xin về Xin về
chung
40-49 02 01 00 00 01 (4%)
50-59 05 02 02 01 03 (12%)
60-69 08 03 03 02 05 (20%)
70-79 06 05 09 06 11 (44%)
80-89 06 01 07 04 05 (20%)
TC 27 12 21 13 25/48
Bảng 3: Biến chứng phổi hậu phẫu.
B.chứng phổi Số ca Xin về
Thuyên tắc phổi 01 00
Tổn thương phổi cấp, suy hô hấp 03 03
Viêm phổi, suy hô hấp 21 09
Viêm phổi kg thở máy 01 00
COPD, suy hô hấp 05 01
COPD, suy hô hấp khai khí đạo 03 02
Tràn dịch màng phổi, suy hô hấp 02 02
Tràn dịch màng phổi 03 00
Suy hô hấp 08 08
Xẹp phổi 01 00
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Mặc dù sự tiến bộ của khoa học về phẫu
thuật, gây mê, hồi sức, biến chứng phổi sau
phẫu thuật bụng vẫn là vấn đề sức khỏe quan
trọng cho bệnh nhân trải qua phẫu thuật bụng
tần suất 20-69% trong nhiều nghiên cứu. Sự
khác nhau về tần suất này chủ yếu do định
nghĩa biến chứng phổi hậu phẫu được nghiên
cứu, tiêu chuẩn lâm sàng được dùng và dân số
phẫu thuật khác nhau(1,9,12). Do đó gần đây, một
số nghiên cứu chỉ tính những biến chứng phổi
nào có nguy cơ tử vong hay kéo dài thời gian
nằm viện như: viêm phổi, suy hô hấp phải thở
máy, đợt cấp của bệnh phổi phế quản tắc nghẽn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tần suất biến
chứng phổi nặng (phải nằm săn sóc đặc biệt) sau
phẫu thuật cho cả 2 cấp cứu và chương trình là
28,24%.
Nghiên cứu của chúng tôi có nhiều giới hạn:
thứ nhất không xem xét toàn bộ bệnh nhân cho
riêng phẫu thuật chương trình và phẫu thuật
cấp cứu cho mỗi loại bệnh trong 01 năm,thí dụ
như bệnh phẫu thuật sạn túi mật, cắt dạ dày, cắt
đại tràng, viêm phúc mạc mật, viêm phúc mạc
do thủng tạng rổng, phẫu thuật phình động
mạch chủ mỗi một năm được thực hiện bao
nhiêu ca và có biến chứng phổi là bao nhiêu
phần trăm; thứ hai là trong nghiên cứu này chỉ
ghi nhận những bệnh nhân có biến chứng phổi
nặng phải nhập và điều trị tại săn sóc đặc biệt
do đó không đánh giá được những biến chứng
phổi có thể có như xẹp phổi, viêm phế quản,
viêm phổi nhẹ điều trị tại khoa sở tại không cần
nhập săn sóc đặc biệt.
Tuy nhiên qua nghiên cứu trên có một số
nhận xét như sau: tần suất biến chứng phổi khá
cao so với biến chứng tim mạch, tần suất này
gặp ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu nhiều hơn
ở bệnh nhân phẫu thuật chương trình, liên quan
đến tử vong là do quá trình bệnh của bệnh
nhân, không liên quan nhiều đến tuổi.
Nhận xét về những yếu tố liên quan đến
bệnh nhân:
Những yếu tố nguy cơ biến chứng phổi liên
quan đến bệnh nhân:
- Thuốc lá: là yếu tố nguy cơ biến chứng
phổi hậu phẫu, thuốc lá gia tăng nguy cơ ngay
cả không có bệnh phổi mạn, không may thay,
nguy cơ này chỉ giảm khi dừng thuốc lá 8 tuần
trước phẫu thuật, những người dừng ít hơn 8
tuần, nguy cơ cao như đang hút. Điều này
chúng ta không thể điều chỉnh được vì bệnh
nhân cần phẫu thuật cấp cứu, nếu phẫu thuật
chương trình thì không bệnh nhân nào nhập
viện trước 2 tháng để cai thuốc trước phẫu
thuật.
- Tình trạng sức khỏe bệnh nhân: khả năng
chức năng kém là yếu tố quan trọng biến chứng
phổi, xếp loại ASA được thiết kế để ước lượng
nguy cơ tử vong khi bệnh nhân trải qua phẫu
thuật, nhưng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nó cũng tiên lượng biến chứng phổi và tim
mạch, bệnh nhân có ASA >II nguy cơ biến
chứng phổi tăng 2-3 lần(9). Trong nghiên cứu của
chúng tôi đa số có ASA >II, và khả năng chức
năng kém, có 14 bệnh nhân phải phẫu thuật lại,
do phẫu thuật nhiều lần, nằm viện dinh dưỡng
chưa đủ tất cả làm tăng nguy cơ biến chứng
phổi sau phẫu thuật.
- Tuổi: > 60t gia tăng biến chứng phổi hậu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 315
phẫu? Vai trò của tuổi như là yếu tố nguy cơ
biến chứng phổi hậu phẫu còn nhiều tranh cãi.
Mặc dù tuổi lớn liên quan đến gia tăng nguy cơ
biến chứng này, hoặc là sự gia tăng nguy cơ này
do quá trình tích tuổi hay do những bệnh đi
kèm với tuổi không rõ(9). Nhận xét về tử vong
liên quan đến tuổi trong nghiên cứu của chúng
tôi nhóm tuổi 40-59 tuổi chỉ có 09 ca chiếm tỉ lệ
18,75%, tử vong 03 ca (03 ca trong nhóm tuổi
này 01 ca bị suy hô hấp và ngưng hô hấp tuần
hoàn trong lúc đang phẫu thuật, 02 ca còn lại do
hậu quả của sốc nhiễm khuẩn suy đa cơ quan,
không do biến chứng riêng của phổi) chiếm tỉ lệ
33,33% cho nhóm tuổi này và 16% cho tử vong
chung; nhóm tuổi 60-89 chiếm tỉ lệ 81,25%, tỉ lệ
tử vong chung 84%, tử vong riêng cho nhóm
tuổi này là 56,41%, nhóm tuổi 80-89 có 13 bệnh
nhân, tử vong 5/13 so với nhóm tuổi 60-79 có 26
bệnh nhân có biến chứng phổi xin về 17/26, điều
đó nói lên do bệnh đi kèm và khả năng chức
năng của bệnh nhân hơn là một mình tuổi như
vậy nguy cơ biến chứng phổi sau phẫu thuật
thường liên quan đến những bệnh cùng tồn tại
hơn là tuổi vì vậy một mình tuổi lớn không là lý
do từ chối phẫu thuật.
- Suyễn không phải là yếu tố nguy cơ biến
chứng phổi hậu phẫu và không làm không gia
tăng nguy cơ nếu suyễn điều trị ổn(1,4,9). Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 02 bệnh nhân
suyễn, không có tử vong.
- Bệnh phổi phế quản tắc nghẽn mãn tín