Đặt vấn đề: chất lượng chăm sóc điều dưỡng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh
nhân trong khoa hồi sức tích cực. Chất lượng chăm sóc điều dưỡng tuỳ thuộc tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng, trình
độ điều dưỡng và có thể đánh giá bằng các chỉ số khách quan. Tại nước ta hiện chưa có nghiên cứu nào đánh giá
chất lượng chăm sóc điều dưỡng cũng như cơ cấu điều dưỡng trong khoa hồi sức tích cực.
Phương pháp: nghiên cứu theo dõi dọc các chỉ số chăm sóc điều dưỡng và cơ cấu điều dưỡng tại khoa hồi
sức tích cực bệnh viện Đại học Y dược từ 11/2011 đến 11/2012.
Kết quả: 102 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Các chỉ số đánh giá chất lượng chăm sóc điều dưỡng
gồm: loét tì 7,8%, té ngã 1,4/1000 ngày điều trị, cột tay chân 1%, dùng thuốc sai 11,1/1000 ngày điều trị (hoặc
3,9% y lệnh), viêm phổi mắc phải trong bệnh viện 2% và nhiễm trùng tiểu mắc phải trong bệnh viện 11,8%. Tỷ
lệ bệnh nhân/điều dưỡng là 2,38 ± 0,66, số năm kinh nghiệm là 7,3 ± 5,9.
Kết luận: chất lượng chăm sóc điều dưỡng đạt yêu cầu về các chỉ số té ngã, cột tay chân, dùng thuốc sai,
nhưng chưa đạt yêu cầu về các chỉ số loét tì và nhiễm trùng tiểu mắc phải. Chất lượng chăm sóc điều dưỡng
chưa cao này có lẽ do tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng còn khá cao so với chuẩn thông thường.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng chăm sóc điều dưỡng tại khoa Hồi sức tích cực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 164
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG
TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC
Hồ Thị Quỳnh Duyên*, Lê Hữu Thiện Biên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: chất lượng chăm sóc điều dưỡng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh
nhân trong khoa hồi sức tích cực. Chất lượng chăm sóc điều dưỡng tuỳ thuộc tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng, trình
độ điều dưỡng và có thể đánh giá bằng các chỉ số khách quan. Tại nước ta hiện chưa có nghiên cứu nào đánh giá
chất lượng chăm sóc điều dưỡng cũng như cơ cấu điều dưỡng trong khoa hồi sức tích cực.
Phương pháp: nghiên cứu theo dõi dọc các chỉ số chăm sóc điều dưỡng và cơ cấu điều dưỡng tại khoa hồi
sức tích cực bệnh viện Đại học Y dược từ 11/2011 đến 11/2012.
Kết quả: 102 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Các chỉ số đánh giá chất lượng chăm sóc điều dưỡng
gồm: loét tì 7,8%, té ngã 1,4/1000 ngày điều trị, cột tay chân 1%, dùng thuốc sai 11,1/1000 ngày điều trị (hoặc
3,9% y lệnh), viêm phổi mắc phải trong bệnh viện 2% và nhiễm trùng tiểu mắc phải trong bệnh viện 11,8%. Tỷ
lệ bệnh nhân/điều dưỡng là 2,38 ± 0,66, số năm kinh nghiệm là 7,3 ± 5,9.
Kết luận: chất lượng chăm sóc điều dưỡng đạt yêu cầu về các chỉ số té ngã, cột tay chân, dùng thuốc sai,
nhưng chưa đạt yêu cầu về các chỉ số loét tì và nhiễm trùng tiểu mắc phải. Chất lượng chăm sóc điều dưỡng
chưa cao này có lẽ do tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng còn khá cao so với chuẩn thông thường.
Từ khóa:chăm sóc điều dưỡng, khoa hồi sức tích cực.
ABSTRACT
EVALUATION OF NURSING CARE QUALITY IN A INTENSIVE CARE UNIT
Ho Thi Quynh Duyen, Le Huu Thien Bien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 164 ‐ 169
Background: nursing care quality had an important role in patient outcomes in intensive care unit (ICU).
Nursing quality depended on patient‐to‐nurse ratio, nurse skill and can be measured by objective indicators. In
Viet Nam, there was no study about nursing quality and nurse staffing in intensive care.
Method: longitudinal observation study in a mixed ICU from 11/2011 to 11/2012.
Results: 102 patients were recruited. Six nursing quality indicators were measured: pressure ulcer 7.8%,
patient fall 1.4/1000 patient‐day, physical restraint 1%, medication error 11.1/1000 patient‐day (or 3.9%
prescriptions), hospital‐acquired pneumonia 2%, hospital‐acquired urinary tract infection 11.8%. The average
patient:nurse ratio was 2.38 ± 0.66 and experienced year was 7.3 ± 5.9.
Conclusion: our nursing quality was comparable to reference values regarding to patient fall, physical
restraint and medication error. The high incidence of acquired pressure ulcer and pneumonia may suggest the
patient‐to‐nurse ratio did not meet the recommended standards.
Keywords: nursing care, intensive care unit (ICU).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời gian gần đây, chất lượng chăm
sóc điều dưỡng được thừa nhận là có vai trò
quan trọng trong kết quả điều trị. Chất lượng
chăm sóc điều dưỡng kém có thể làm kéo dài
* Khoa Hồi Sức Tích Cực‐ Bệnh Viện Đại Học Y Dược TpHCM, ** Đại Học Y Dược TpHCM
Tác giả liên lạc: Ths. BS Lê Hữu Thiện Biên, ĐT: 0903644931. Email: bien.le@umc.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 165
thời gian điều trị, phát sinh các biến chứng,
thậm chí tăng tỷ lệ tử vong(18,19). Đối với bệnh
nhân điều trị tại khoa hồi sức tích cực thì chất
lượng chăm sóc điều dưỡng càng đóng vai trò
quan trọng hơn nữa vì đây là những bệnh nhân
nặng và hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc
của nhân viên y tế(13,20).
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
chăm sóc điều dưỡng gồm: mức độ nặng của
bệnh nhân(12), tỷ lệ bệnh nhân‐điều dưỡng(13) và
trình độ điều dưỡng(17). Các chỉ số thường
được sử dụng để đánh giá chất lượng chăm
sóc điều dưỡng gồm: tỷ lệ tử vong, thời gian
điều trị, mức độ đau sau mổ, loét tì, tự rút nội
khí quản, nhiễm trùng bệnh viện, cột tay chân,
dùng sai thuốc(21,25).
Tại Việt nam, Nguyễn Văn Thông ghi nhận
tỷ lệ nhiễm trùng tiểu là 6% và tỷ lệ loét tì là 4%
trên bệnh nhân điều trị tại Trung tâm đột quỵ
não Bệnh viện 108(3). Mặc dù mô hình của trung
tâm đột quỵ khá giống khoa hồi sức tích cực, tuy
nhiên nghiên cứu này thiếu một số một số thông
tin quan trọng về mô hình phân công điều
dưỡng (ví dụ: tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng, trình
độ điều dưỡng). Nghiên cứu chưa ghi nhận đầy
đủ cũng như có định nghĩa rõ ràng các chỉ tiêu
đánh giá chất lượng chăm sóc điều dưỡng.
Ngoài ra nghiên cứu chỉ thực hiện trên một
nhóm bệnh nhân duy nhất (đột quỵ) do đó kết
quả khó có thể áp dụng rộng rãi. Vì vậy chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá
chất lượng chăm sóc điều dưỡng tại khoa hồi
sức tích cực, sử dụng các chỉ số của Hội điều
dưỡng Hoa kỳ và Trung tâm nghiên cứu chất
lượng điều trị.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu theo dõi dọc từ 11/2011 đến
11/2012 tại khoa hồi sức tích cực‐bệnh viện Đại
học Y dược TP.HCM.
Đối tượng nghiên cứu
Khoa hồi sức tích cực‐bệnh viện Đại học Y
dược TP.HCM là một khoa hồi sức tích cực nội‐
ngoại. Mức độ nặng của bệnh nhân được đánh
giá theo mức độ chăm sóc của Bộ Y tế Việt nam
(1). Bệnh nhân chọn vào nghiên cứu là những
bệnh nhân trên có thời gian điều trị trên 48 giờ.
Điều dưỡng làm việc theo ca 8 giờ, mỗi ca có 1
điều dưỡng trưởng kíp và điều dưỡng trưởng
kíp cũng tham gia chăm sóc bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Điều dưỡng trưởng kíp ghi nhận tỷ lệ bệnh
nhân/điều dưỡng trong mỗi ca. Điều dưỡng
viên ghi nhận các chỉ số đánh giá chất lượng
chăm sóc điều dưỡng trên bệnh nhân của mình
phụ trách. Các chỉ số đánh giá chất lượng chăm
sóc điều dưỡng dùng trong nghiên cứu gồm:
viêm phổi mắc phải trong bệnh viện, nhiễm
trùng tiểu mắc phải trong bệnh viện, loét tì, té
ngã, cột tay chân, dùng thuốc sai.
Năng lực điều dưỡng được tính bằng trình
độ học vấn và số năm làm việc trong ngành hồi
sức cho tới khi tham gia vào nghiên cứu.
Viêm phổi mắc phải trong bệnh viện được
chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Trung tâm kiểm
soát và dự phòng bệnh tật Hoa Kỳ(8): có thâm
nhiễm trên phim X quang mới xuất hiện sau khi
vào khoa hồi sức tích cực 48 giờ kèm sốt > 38o C
hoặc bạch cầu máu > 10.000/mm3. Những bệnh
nhân đã bị viêm phổi khi vào khoa sẽ không
được tính vào số trường hợp mắc viêm phổi
trong bệnh viện. Tỷ lệ viêm phổi mắc phải trong
bệnh viện được tính bằng số trường hợp viêm
phổi mắc phải sau khi vào khoa hồi sức tích cực
trên tổng số bệnh nhân trong nghiên cứu.
Nhiễm trùng tiểu mắc phải trong bệnh viện
được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Trung tâm
kiểm soát và dự phòng bệnh tật Hoa kỳ(8): cấy
nước tiểu >105 khúm vi trùng/ml kèm sốt > 38oC
hoặc bạch cầu máu >10.000/mm3. Những bệnh
nhân đã bị nhiễm trùng tiểu khi vào khoa sẽ
không được tính vào số trường hợp mắc nhiễm
trùng tiểu trong bệnh viện. Tỷ lệ nhiễm trùng
tiểu mắc phải trong bệnh viện được tính bằng số
trường hợp nhiễm trùng tiểu mắc phải sau khi
vào khoa hồi sức tích cực trên tổng số bệnh nhân
trong nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 166
Loét tì được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của
Uỷ ban phòng chống loét tì Hoa kỳ và Châu
Âu(14). Tất cả bệnh nhân bị loét tì độ I‐IV sau
khi vào khoa sẽ được xem như bị loét tì mắc
phải tại khoa hồi sức tích cực. Tỷ lệ loét tì được
tính bằng tổng số trường hợp loét tì mắc phải
tại khoa hồi sức tích cực trên tổng bệnh nhân
trong nghiên cứu.
Điều dưỡng tự ghi nhận số lần bệnh nhân
té ngã khỏi giường. Tỷ lệ té ngã được tính
bằng tổng số lần bệnh nhân té ngã trên tổng số
ngày điều trị của các bệnh nhân trong nghiên
cứu × 1000.
Điều dưỡng tự ghi nhận bệnh nhân bị cột
tay hoặc chân. Tỷ lệ cột tay chân được tính bằng
số bệnh nhân bị cột tay chân trên tổng số bệnh
nhân trong nghiên cứu.
Dùng thuốc sai được định nghĩa là những
trường hợp dùng thuốc sai loại, liều lượng,
đường dùng hoặc quên dùng. Tỷ lệ dùng thuốc
sai được tính bằng số lần dùng thuốc sai trên
tổng số y lệnh và số lần dùng thuốc sai trên tổng
số ngày điều trị × 1000.
Số liệu trình bày trong nghiên cứu dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 11/2011‐11/2012 có 102
bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu với tuổi
trung bình là 70,4 ± 13,3 năm. Các bệnh nguyên
nhân gồm: suy hô hấp, sốc, bệnh thần kinh,
phẫu thuật có biến chứng (bảng 1).
Bảng 1. Đặc biểm bệnh nhân trong nghiên cứu
Nguyên nhân Số lượng Tỷ lệ (%)
Suy hô hấp 38 37,3
Sốc 20 20,6
Bệnh lý thần kinh 17 16,7
Phẫu thuật có biến chứng 14 13,7
Nguyên nhân khác 12 11,8
Mức độ nặng của bệnh nhân từ thấp đến cao
gồm: chăm sóc cấp 1 (21,6%), chăm sóc cấp 2
(9,8%), chăm sóc cấp 3 (68,6%) (bảng 2). Thời
gian điều trị trung bình của bệnh nhân là 7,0 ±
4,9 ngày.
Bảng 2: Mức độ chăm sóc
Mức độ chăm sóc Số lượng Tỷ lệ (%)
Cấp 1 70 68,6
Cấp 2 10 9,8
Cấp 3 22 21,6
Các chỉ số đánh giá chất lượng chăm sóc
điều dưỡng gồm: loét tì 7,8%, té ngã 1,4 lần/1000
ngày điều trị, cột tay chân 1%, dùng thuốc sai
11,1 lần/1000 ngày điều trị (3,9% y lệnh), viêm
phổi 2%, nhiễm trùng tiểu 11,8% (bảng 3).
Bảng 3. Các chỉ số đánh giá chất lượng chăm sóc
điều dưỡng
Loét tì 7,8%
Té ngã 1,4/1000 ngày điều trị
Cột tay chân 1%
Dùng thuốc sai 11,1/1000 ngày điều trị (3,9% y lệnh)
Viêm phổi 2%
Nhiễm trùng tiểu 11,8%
Tỷ lệ bệnh nhân/ điều dưỡng trung bình là
2,38 ± 0,66 và thời gian làm việc trung bình trong
ngành hồi sức của điều dưỡng khoa săn sóc đặc
biệt là 7,3 ± 5,9 năm (bảng 4).
Bảng 4. Đặc điểm đội ngũ điều dưỡng trong nghiên
cứu
Đặc điểm Trung bình ± độ lệch chuẩn
Tuổi 30,2 ± 6,5
Năm kinh nghiệm 7,3 ± 5,9
Trình độ học vấn
Cử nhân điều dưỡng 9 (20%)
Điều dưỡng trung học 37 (80%)
BÀN LUẬN
Kết quả quan trọng nhất thu được qua
nghiên cứu này là một số chỉ số đánh giá chất
lượng chăm sóc điều dưỡng gồm: (1) loét tì
7,8%, (2) té ngã 1,4 lần/1000 ngày điều trị, (3)
cột tay chân 1%, (4) dùng thuốc sai 3,9%, (5)
viêm phổi mắc phải 2% và (6) nhiễm trùng tiểu
mắc phải 11,8%.
So với nghiên cứu của Nguyễn Văn
Thông(19), bệnh nhân trong nghiên cứu này có
tỷ lệ loét tì cao hơn. Tuy nhiên vì Nguyễn Văn
Thông không cho biết tuổi, thời gian điều trị
cũng như mức độ bất động của bệnh nhân là
những yếu tổ ảnh hưởng đến loét tì(4,6) nên rất
khó so sánh với kết quả của chúng tôi. Trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 167
nghiên cứu này hầu hết bệnh nhân có mức độ
hộ lý cấp 3, phải dùng các phương pháp điều
trị hỗ trợ chức năng sống (ví dụ: máy thở,
thuốc vận mạch) do đó gần như hoàn toàn bất
động. Theo Reilly(24) tỷ lệ loét tì của bệnh nhân
hồi sức tích cực vào khoảng 8,4%. Đối với các
nghiên cứu trong khu vục thì Chitpakdee(2) ghi
nhận tỷ lệ loét tì thay đổi từ 0‐10,9% tuỳ khoa.
Cho rằng tỷ lệ loét tì cao nhất trong nghiên
cứu của Chitpakdee xảy ra trên nhóm bệnh
nhân nặng nhất (bệnh nhân hồi sức tích cực),
thì tỷ lệ loét tì của chúng tôi không phải là cao.
Theo Lake(13) tỷ lệ té ngã của bệnh nhân khoa
hồi sức tích cực là 1,38 ± 2,79 lần/1000 ngày điều
trị với yếu tố nguy cơ chính là thời gian chăm
sóc bệnh nhân trong ngày của điều dưỡng. So
với chuẩn tỷ lệ điều bệnh nhân :điều dưỡng của
các nước là 1‐2 thì tỷ lệ té ngã trong nghiên cứu
này cũng tương tự. Có lẽ vì hầu hết bệnh nhân
đều được dùng an thần nên tỷ lệ té ngã ít bị ảnh
hưởng bởi tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng.
Một điểm lý thú nữa là mặc dù tỷ lệ bệnh
nhân té ngã tương tự với khoa hồi sức tích cực
các nước nhưng tỷ lệ bệnh nhân bị cột tay chân
lại rất thấp. Theo khảo sát của Eser(6) trên các
điều dưỡng hồi sức thì 81,7% bệnh nhân bị cột
tay chân, tuy nhiên chỉ có 32,2% y lệnh cột tay
chân được ghi nhận trong bệnh án. Điều này
cũng phản ánh việc cột tay chân bệnh nhân là
khá phổ biến trong khoa hồi sức tích cực, nhưng
ít khi được ghi nhận chính xác. Tương tự như
chỉ số té ngã, số bệnh nhân bị cột tay chân do
điều dưỡng tự ghi nhận, do đó có sự khác biệt
khá nhiều so với các nghiên cứu khác. Chúng tôi
cho rằng cần sử dụng phương pháp khác, ví dụ:
người quan sát độc lập, thì mới đánh giá chính
xác được tỷ lệ bệnh nhân bị cột tay chân trong
khoa hồi sức tích cực.
Cho bệnh nhân dùng thuốc là một công việc
chính của điều dưỡng, vì vậy dùng thuốc sai
được xem như một chỉ số đánh giá chất lượng
chăm sóc bệnh nhân. Bệnh nhân khoa hồi sức
tích cực thường dùng nhiều loại thuốc hơn các
bệnh nhân thông thường, bên cạnh đó điều
dưỡng của khoa hồi sức còn tốn thời gian để vận
hành nhiều loại trang thiết bị phức tạp (ví dụ:
máy giúp thở), vì vậy tỷ lệ dùng thuốc sai sẽ cao
hơn(5). Trong nghiên cứu này mỗi bệnh nhân có
trung bình 17,8 ± 5 y lệnh/ngày với tỷ lệ dùng
thuốc sai là 11,1/1000 ngày điều trị (hoặc 3,9% y
lệnh) và khá thấp so với các nghiên cứu
khác(10,11,26). Tuy nhiên chúng tôi cũng thừa nhận
phương pháp tự ghi nhận thường phản ánh
không chính xác tỷ lệ dùng thuốc sai(12).
Nhiễm trùng bệnh viện có liên quan đến
công tác chăm sóc bệnh nhân, do đó tỷ lệ nhiễm
trùng bệnh viện cũng thường được sử dụng để
đánh giá chất lượng chăm sóc điều dưỡng.
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận tỷ lệ
viêm phổi mắc phải là 2% và tỷ lệ nhiễm trùng
tiểu mắc phải là 11,8%. So với nghiên cứu của
Needleman(16) thì tỷ lệ nhiễm trùng tiểu mắc
phải này là khá cao trong khi tỷ lệ viêm phổi
mắc phải lại khá thấp. Trong nghiên cứu này khi
giảm tỷ lệ bệnh nhân:điều dưỡng từ tứ phân vị
thứ tư xuống tứ phân vị thứ nhất thì giảm được
tỷ lệ nhiễm trùng tiểu xuống 9% và tỷ lệ viêm
phổi xuống 5,1%. Như vậy với tỷ lệ bệnh nhân
/điều dưỡng trung bình là 2,38 thì có lẽ muốn
giảm tỷ lệ nhiễm trùng tiểu mắc phải xuống thì
cũng phải giảm tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng.
Chúng tôi cảm thấy hơi khó giải thích về tỷ lệ
viêm phổi mắc phải khá thấp trong nghiên cứu
này, có lẽ một phần vì tỷ lệ bệnh nhân vào khoa
hồi sức tích cực do nhiễm trùng hô hấp ban đầu
khá cao và những bệnh nhân được xem như
không mắc viêm phổi mắc phải nữa đã làm tỷ lệ
viêm phổi mắc phải thấp đi giả tạo.
Tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng trong nghiên
cứu này là 2,38 ± 0,66, tương tự như số liệu của
bộ y tế năm 201(18). Mặc dù tỷ lệ bệnh nhân/điều
dưỡng không hoàn toàn quyết định chất lượng
chăm sóc bệnh nhân trong khoa hồi sức tích cực,
nhưng đây là một thông số rất quan trọng đã
được đồng thuận của nhiều hội chuyên ngành
với tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng ≤ 2 cho các bệnh
nhân không thở máy là 1 cho bệnh nhân thở
máy(7,22). Theo Kane(11) nếu tăng thêm 1BN:ĐD
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 168
thì làm tăng thêm 45% rút nội khí quản tự ý,
16% suy hô hấp‐tuần hoàn. So sánh với các nước
trong khu vực thì tỷ lệ bệnh nhân:điều dưỡng
trong khoa hồi sức tích cực của Hàn quốc là 2,8 ±
1(3). Trong nghiên cứu này tỷ lệ điều dưỡng nhận
xét chất lượng chăm sóc bệnh nhân tốt giảm dần
khi tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng tăng dần từ < 2
đến >3. Hiện nay nước ta chưa có chuyên ngành
điều dưỡng hồi sức, nhưng thời gian làm việc
trung bình của điều dưỡng tại khoa hồi sức tích
cực‐bệnh viện Đại học Y dược là 7 năm, so với
số năm kinh nghiệm của điều dưỡng trong
nghiên cứu của Cho là 5 năm, theo chúng tôi là
cũng đủ kinh nghiệm để xử trí những vấn đề
thường gặp. Vì vậy, chất lượng chăm sóc bệnh
nhân nếu có khác biệt so với các nghiên cứu
khác, có lẽ chủ yếu do tỷ lệ bệnh nhân/điều
dưỡng.
Hạn chế chính của nghiên cứu này là để
điều dưỡng tự ghi nhận các biến cố (ví dụ: té
ngã, cột tay chân, dùng thuốc sai) do đó có thể
đánh giá không chính xác tần suất của các biến
cố này. Những phương pháp khách quan như
có nhân viên giám sát độc lập, đối chiếu sổ
thuốc sẽ cho phép đánh giá chính xác hơn
những chỉ số này. Ngoài ra chúng tôi cũng chưa
có điều kiện tiến hành khảo chi tiết hơn về
cường độ làm việc và thời gian chăm sóc chăm
sóc bệnh nhân là những yếu tố cũng ảnh hưởng
đến chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này lần đầu tiên cho biết một
vài chỉ tiêu đánh giá chất lượng chăm sóc điều
dưỡng và tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng tại một
khoa hồi sức tích cực nước ta. Nhận xét một cách
sơ bộ thì chất lượng chăm sóc bệnh nhân đạt
yêu cầu trên các chỉ tiêu té ngã, cột tay chân,
dùng thuốc sai và chưa đạt yêu cầu trên các chỉ
tiêu về loét tì, nhiễm trùng tiểu mắc phải so với
chuẩn của Hội hồi sức Ấn độ(23). Chất lượng
chăm sóc điều dưỡng chưa cao này có lẽ phần
nào liên quan đến tỷ lệ bệnh nhân/điều dưỡng
còn hơi cao so với chuẩn thông thường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế Việt nam (2011). Hướng dẫn công tác điều dưỡng về
chăm sóc người bệnh trong bệnh viện. Thông tư 07/2011/TT‐
BYT.
2. Chitpakdee B, Kunaviktikul W, Srisuphan W(2008). Nurse
staffing and adverse patient outcomes. CMU J Nat Sci;7(1):59.
Cho SS, June KJ, Kim YM. Nurse staffing, quality of nursing
care and nurse job outcomes in intensive care units. J Clin
Nursing 2009;17:1729.
3. Cho SS, June KJ, Kim YM(2009). Nurse staffing, quality of
nursing care and nurse job outcomes in intensive care units. J
Clin Nursing;17:1729.
4. Cox J(2011). Predictors of pressure ulcers in adult critical care
patients. Am J Crit Care;20:364.
5. Cullen DJ, Sweitzer BJ, Bates DW (1997). Preventable adverse
drug events in hospitalized patients: a comparative study of
intensive care and general care units. Crit Care Med;25:1289.
6. Eser I, Khorshid L, Hakverdioglu G (2007). The characteristics
of physically restrained patients in intensive care units.
International J Human science;4(2):1.
7. European federation of critical care nursing association (2007).
Position statement on workforce requirements in critical care
units ( / publication/
2007_ps_ workforce_requirements_neu.pdf).
8. Horan TC, Andrus M, Dudeck MA (2008). CDC/NHSN
surveillance definition of health care‐ associated infection and
criteria for specific types of infections in the acute care setting.
Am J Infect Control;36: 309.
9. Jennane N, Madani N, OuldErrkhis R (2011). Incidence of
medication errors in a Morrocan medical intensive care unit.
Inter Arch Med;4:32.
10. Jennings BM (2008). Patient acuity. In: Patient safety and
quality: an evidenced‐based handbook for nurse. AHRQ
publication No. 08‐0043. Chap 23.
(‐
providers/resources/nursing/resources/nurseshdbk/nurseshd
bk.pdf).
11. Kane RL, Shamliyan TA, Muller C (2007). The association of
registered nurse staffing levels and patient outcomes:
systematic review and meta‐analysis. Med Care;45(12):1195.
12. Keikkas P, Karga M, Lemonidou C (2011). Medication errors
in critically ill adults: a review of direct observation evidence.
Am J Crit Care;20:36.
13. Lake ET, Shang J, K