Bệnh do Candidaphổ biến khắp thế giới, trên mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc,
không phân biệt phái tính và có thể xảy ra ở bất kỳ cơ quan nào, nhất là da và
niêm mạc. Đây cũng là bệnh cơ hội thường gặp ở cơ địa suy giảm miễn dịch,
đặc biệt trên 90% đối tượng nhiễm HIV/AIDS
(Error! Reference source not found.)
.
Candida spp.còn là tác nhân đứng hàng thứ tư trong nhiễm khuẩn huyết bệnh
viện, chiếm 6,6 –21%
(Error! Reference source not found.)
. Tỉ lệ tử vong do nhiễm
Candidamáu là 26 –75%
(Error! Reference source not found.)
. Trong các th ể lâm sàng,
thư ờng gặp nhất là viêm âm đạo (VÂĐ). Khoảng 13 triệu trường hợp được ghi
nhận hằng năm với khoảng 75% phụ nữ bị nhiễm nấm âm đạo ít nhất một lần
trong đời, 40 –50% tái phát 2 –3 lần/năm và VÂĐ mãn tính chiếm khoảng
5%
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
Về tác nhân gây bệnh, không phải tất cả các trường hợp nhiễm nấm Candida
đều do C. albicans; hơn m ột phần ba số mẫu được xét nghiệm có thể nhiễm các
loài C. non-albicansnhư: C. tropicalis, C. krusei, C. glabrata, C.
pseudotropicalis, C. parasilosis, hoặc những loài rất kháng trị như C.
lusitaniae. Sự phân bố Candida spp thay đổi theo từng vùng địa lý
(Error! Reference
source not found.)
và nhạy cảm khác nhau với hoạt chất kháng nấm. Điều này ảnh
hưởng không ít đến hiệu quả điều trị nếu áp dụng một cách “phiến diện” phác
đồ trên y văn vào Việt Nam.
Nhiều phương pháp được xây dựng để phân biệt các loài Candida spp., từ
những phương pháp đơn giản, cổ điển, căn cứ vào hình thái học hoặc sinh học
của chúng (thử nghiệm huyết thanh, Dalmau, sinh hóa ) đến những phương
pháp hiện đại như các kỹ thuật sinh học phân tử hoặc dựa vào khả năng sinh
màu trên môi trường CHROMagar Candida. Mỗi phương pháp đều có ưu
khuyết điểm riêng về giá trị và các khía cạnh khác. So với điều kiện hiện nay ở
Việt Nam, các phương pháp kinh điển có vẻ phù hợp hơn, tuy nhiên tỉ lệ phát
hiện C. albicansvà C. non-albicans cũng như khả năng tiên đoán của thử
nghiệm sinh ống mầm và thử nghiệm Dalmau là bao nhiêu, có tin cậy được hay
không so với các kỹ thuật hiện đại ?
Từ cơ sở trên, khảo sát này được tiến hành nhằm lựa chọn phương pháp định
danh thích hợp, có thể hỗ trợ trong điều trị, các nghịên cứu dịch tễ học cũng
như các thử nghiệm đánh giá invitro, invivo về thuốc kháng nấm liên quan đến
bệnh lý Candida spp.
17 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thử nghiệm sinh ống mầm và thử nghiệm dalmau trong định danh candida albicans và candida non– albicans (2007), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỬ NGHIỆM SINH ỐNG MẦM VÀ THỬ NGHIỆM DALMAU
TRONG ĐỊNH DANH CANDIDA ALBICANS VÀ CANDIDA NON–
ALBICANS (2007)
TÓM TẮT
Mục tiêu: xác định hiệu quả của thử nghiệm sinh ống mầm (TNSOM) và
thử nghiệm Dalmau (sinh bào tử bao dày) trong định danh Candida
albicans và Candida non-albicans.
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên
323 chủng Candida spp. lưu trữ tại bộ môn Ký Sinh Trùng – Vi Nấm Học, Đại
Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. HCM. Khả năng sinh ống mầm trong
huyết thanh gộp của người và sinh bào tử bao dày trên môi trường khoai tây-cà
rốt-Tween 80 được so sánh với kết quả định danh C. albicans và C. non-
albicans bằng môi trường CHROMagar (tiêu chuẩn vàng) để tính độ nhạy, độ
đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm với phần mềm STATA 8.0.
Kết quả: C. albicans chiếm ưu thế hơn C. non-albicans trong toàn bộ mẫu
khảo sát (70,61% so với 29,39%) cũng như theo vị trí phân lập (63,56% ở
âm đạo và 91,84% ở miệng). Độ nhạy và giá trị tiên đoán âm của thử
nghiệm SOM (99,57% và 98,75%) cao hơn Dalmau (58,80% và 49,44%)
một cách có ý nghĩa thống kê (p < 0,001); độ đặc hiệu tuy thấp hơn (87,78%
so với 93,33%) nhưng không có ý nghĩa thống kê ( p = 0,27 ).
Kết luận: C. albicans là tác nhân chủ yếu trong số các chủng thu thập được
từ bệnh nhân. Thử nghiệm sinh ống mầm trong môi trường huyết thanh gộp
của người có thể được sử dụng để phân biệt C. albicans và C. non-albicans
trong tình hình thực tế tại Việt Nam.
ABSTRACT
Objective: to determine the efficacy of serum test (ST) and Dalmau test for
identification of C. albicans and C. non-albicans.
Study design: A cross-sectional study was conducted with 323 Candida
spp. samples stored at Department of Parasitology - Mycology, Phạm Ngọc
Thạch University of Medecine, HCM city. Candida spp. samples were
identified by using gold standard test as CHROMagar coincidentally with
the serum test and Dalmau’s test. The sensitivity, the specificity, positive
predictive value and negative predictive value were calculated.
Results: C. albicans was the dominant compared to C. non-albicans in all
samples (70.61% vs 29.39%, respectively), as well as in vaginal samples
(63.56%) and oral samples (91.84%). Serum test had higher sensitivity
(99.57%), negative predictive value (98.75%) than Dalmau’s test. No
statistics difference in specificity of these two diagnostic test.
Conclusion: C. albicans was the most common species were isolated in this
study. Serum test can be used as a method in identification of C. albicans
and C. non-albicans in Viet nam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh do Candida phổ biến khắp thế giới, trên mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc,
không phân biệt phái tính và có thể xảy ra ở bất kỳ cơ quan nào, nhất là da và
niêm mạc. Đây cũng là bệnh cơ hội thường gặp ở cơ địa suy giảm miễn dịch,
đặc biệt trên 90% đối tượng nhiễm HIV/AIDS(Error! Reference source not found.).
Candida spp. còn là tác nhân đứng hàng thứ tư trong nhiễm khuẩn huyết bệnh
viện, chiếm 6,6 – 21%(Error! Reference source not found.). Tỉ lệ tử vong do nhiễm
Candida máu là 26 – 75%(Error! Reference source not found.). Trong các thể lâm sàng,
thường gặp nhất là viêm âm đạo (VÂĐ). Khoảng 13 triệu trường hợp được ghi
nhận hằng năm với khoảng 75% phụ nữ bị nhiễm nấm âm đạo ít nhất một lần
trong đời, 40 – 50% tái phát 2 – 3 lần/năm và VÂĐ mãn tính chiếm khoảng
5%(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Về tác nhân gây bệnh, không phải tất cả các trường hợp nhiễm nấm Candida
đều do C. albicans; hơn một phần ba số mẫu được xét nghiệm có thể nhiễm các
loài C. non-albicans như: C. tropicalis, C. krusei, C. glabrata, C.
pseudotropicalis, C. parasilosis, hoặc những loài rất kháng trị như C.
lusitaniae. Sự phân bố Candida spp thay đổi theo từng vùng địa lý (Error! Reference
source not found.) và nhạy cảm khác nhau với hoạt chất kháng nấm. Điều này ảnh
hưởng không ít đến hiệu quả điều trị nếu áp dụng một cách “phiến diện” phác
đồ trên y văn vào Việt Nam.
Nhiều phương pháp được xây dựng để phân biệt các loài Candida spp., từ
những phương pháp đơn giản, cổ điển, căn cứ vào hình thái học hoặc sinh học
của chúng (thử nghiệm huyết thanh, Dalmau, sinh hóa …) đến những phương
pháp hiện đại như các kỹ thuật sinh học phân tử hoặc dựa vào khả năng sinh
màu trên môi trường CHROMagar Candida. Mỗi phương pháp đều có ưu
khuyết điểm riêng về giá trị và các khía cạnh khác. So với điều kiện hiện nay ở
Việt Nam, các phương pháp kinh điển có vẻ phù hợp hơn, tuy nhiên tỉ lệ phát
hiện C. albicans và C. non-albicans cũng như khả năng tiên đoán của thử
nghiệm sinh ống mầm và thử nghiệm Dalmau là bao nhiêu, có tin cậy được hay
không so với các kỹ thuật hiện đại ?
Từ cơ sở trên, khảo sát này được tiến hành nhằm lựa chọn phương pháp định
danh thích hợp, có thể hỗ trợ trong điều trị, các nghịên cứu dịch tễ học cũng
như các thử nghiệm đánh giá invitro, invivo về thuốc kháng nấm liên quan đến
bệnh lý Candida spp.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của
thử nghiệm sinh ống mầm (TNSOM) và thử nghiệm Dalmau trong định danh
C. albicans và C. non-albicans trên các chủng Candida spp. phân lập từ bệnh
nhân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo sát mô tả cắt ngang được tiến hành từ tháng 01/2007 đến tháng 07/2007,
tại Bộ môn Ký Sinh Trùng – Vi Nấm Học, Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch,
TP. HCM, với mong muốn áp dụng kết quả vào các trường hợp nhiễm nấm
Candida spp. Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ ở mức tin cậy
95%, sai số cho phép 5%, với p tham khảo bao gồm độ nhạy, độ đặc hiệu của
TNSOM và Dalmau lần lượt là 94,7%, 82,80% và 98,60%, 99,99% cho phép
xác định cỡ mẫu cần cho nghiên cứu là 219. Toàn bộ 323 chủng Candida spp.
lưu trữ trong glycerin 10%, ở – 20oC, được đưa vào khảo sát. Các chủng này
được phân lập từ các trường hợp viêm âm đạo hoặc đẹn miệng do nấm trong
năm 2005 và 2006 tại các bệnh viện tuyến 1 TP. HCM.
Sau khi phục hồi bằng môi trường Sabouraud Dextrose Agar chloramphenicol ủ
ở nhiệt độ phòng, các chủng nấm được cấy lên CHROMagar Candida (tiêu
chuẩn vàng) để định danh C. albicans (CA) và C. non-albicans (CNA) dựa trên
màu sắc khúm nấm. Sử dụng huyết thanh gộp của người, thu thập từ khoa xét
nghiệm bệnh viện Chợ Rẫy, để khảo sát đặc điểm sinh ống mầm (thử nghiệm
huyết thanh); và môi trường khoai tây-cà rốt-Tween 80 để đánh giá khả năng
sinh bào tử bao dày (kỹ thuật Dalmau).
Xử lý số liệu bằng Stata 8.0. Trình bày kết quả dưới dạng bảng, biểu. Sử dụng
tần số, tỉ lệ để mô tả các biến số. Phân tích độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên
đoán dương, tiên đoán âm của các thử nghiệm bằng 2 Mc Nemar (khoảng tin
cậy 95%, p).
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc tính n (%)
Vị trí phân
lập (N =
323)
Âm đạo
Miệng
225 (69,66)
98 (30,34)
Chủng
Candida
C. albicans
C. non-
albicans
Phối hợp
226 (69,96)
90 (27,86)
7 (2,17)
Âm đạo (n
= 225)
C. albicans
C. non-
albicans
143 (63,56)
82 (36,44)
Miệng (n =
98)
C. albicans
C. non-
90 (91,84)
8 (8,16)
albicans
C. non-
albicans (n
= 90)
C.
dubliniensis
C. tropicalis
Loài khác
8 (8,89)
3 (3,33)
79 (87,78)
C. albicans chiếm ưu thế trong 323 mẫu khảo sát nói chung (69,96%), ở âm
đạo và miệng nói riêng (63,56% và 91,84%). Có 2,17% trường hợp nhiễm phối
hợp C. albicans và C. non-albicans.
C. dubliniensis và C. tropicalis chiếm tỷ lệ thấp (3,33% và 8,89%) so với các
loài C. non-albicans khác (87,78%). Nhóm C. non-albicans này bao gồm chủ
yếu các chủng sinh màu hồng (C. glabrata hoặc C. krusei), chỉ có 2 khúm màu
kem (C. parapsilosis).
Bảng 2: Các giá trị của thử nghiệm SOM
CHROMAgar
CA CNA
Tổng
CA 232 11 243
SOM
CNA 1 79 80
Tổng 233 90 323
Se = 99,57% (97,63 – 99,99)
Sp = 87,78% (79,18 – 93,74)
PV = 95,47% (92,04 – 97,72)
PV = 98,75% (93,23 – 99,97)
Các giá trị của TNSOM đều cao trong việc phân biệt C. albicans (CA) và C.
non-albicans (CNA).
Bảng 3: Các giá trị của thử nghiệm Dalmau
CHROMAgar Tổng
CA CNA
CA 137 6 143
Dalmau
CNA 96 84 180
Tổng 233 90 323
Se = 58,80 (52,19 – 65,18)
Sp = 93,33 (86,05 – 97,51)
PV = 95,80 (91,09 – 98,44)
PV = 49,44 (39,21 – 54,24)
Khả năng phát hiện C. non-albicans của thử nghiệm (TN) Dalmau cao nhưng
lại thấp đối với C. albicans. Do đó, PV cao và PV thấp.
Độ đặc hiệu của 2 phương pháp không khác biệt nhưng độ nhạy của SOM cao
hơn có ý nghĩa thống kê (2McNemar hiệu chỉnh, psp = 0,27, pse < 0,001)
BÀN LUẬN
Đặc tính của mẫu nghiên cứu
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 323 mẫu Candida spp. được thu thập từ nhiều
khảo sát khác nhau, bao gồm 69,66% mẫu phân lập từ âm đạo và 30,34% từ
miệng (bảng 1). Trong số đó, C. albicans chiếm 69,96%, C. non-albicans chiếm
27,86%, còn lại 2,17% mẫu nhiễm phối hợp C. albicans và C. non-albicans. Tuy
nhiên, khi khảo sát giá trị của thử nghiệm huyết thanh cũng như kỹ thuật
Dalmau, mỗi mẫu phối hợp chỉ được tính là 1 chủng Candida sp. và được xếp
vào nhóm C. albicans vì sự hiện diện của C. albicans ở những mẫu phối hợp sẽ
tạo ra ống mầm trên canh cấy huyết thanh và bào tử bao dày trên môi trường
khoai tây-cà rốt-Tween80 làm các chủng C. non-albicans không được nhận diện.
Đây chính là hạn chế của 2 kỹ thuật được đánh giá so với tiêu chuẩn vàng (cấy
trên CHROMAgar). Như vậy, tỷ lệ phân bố thực sự giữa C. albicans là
(226+7)/(323 + 7) = 70,61%, C. non-albicans là (90+7)/(323 + 7) = 29,39%. Các
tỷ lệ này được sử dụng để bàn về sự phân bố giữa 2 nhóm Candida.
C. albicans và C. non-albicans phân bố tương tự các báo cáo trong và ngoài
nước (bảng 1): C. albicans giữ vai trò vượt trội trong các bệnh lý do Candida
spp.(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.) vì chúng sống hoại sinh
trên cơ thể người và dễ dàng chuyển sang gây bệnh khi có yếu tố thuận lợi. Xét
riêng về C. non-albicans, nhìn chung, kết quả 29,39% cao hơn y văn(Error! Reference
source not found.) nhưng thấp hơn so với Trần Thị Lợi (84,20%)(Error! Reference source not
found.) và Parazzini (57,30%)(Error! Reference source not found.). Nguyên nhân có thể do
mẫu khảo sát của Trần Thị Lợi chỉ bao gồm các trường hợp nhiễm Candida spp.
tái phát; khác với nghiên cứu này, chủ yếu là các đối tượng đến khám lần đầu.
Thực tế y văn cũng đã ghi nhận C. non-albicans chiếm trên 33% các trường hợp
viêm tái phát(Error! Reference source not found.) vì C. albicans nhạy với thuốc kháng nấm
hơn. Nhưng sự tái phát chưa hẳn là lý do duy nhất ! Thật vậy, các mẫu nhiễm
Candida spp. của Parazzini cũng không phân biệt lần đầu hay tái phát và được
định danh bằng CHROMagar. Phải chăng yếu tố địa lý hoặc tuổi mãn kinh đã
góp phần cho tỉ lệ C. non-albicans của Parazzini cao hơn kết quả hiện tại ?
Tóm lại, C. albicans vẫn phổ biến trong các trường hợp bệnh do Candida
spp. như bối cảnh chung của thế giới. Tuy nhiên, gần 1/3 (29,39%) trường
hợp nhiễm C. non-albicans không phải là nhỏ. Việc vận dụng phác đồ điều
trị theo y văn vào thực tế Việt Nam, e rằng sẽ không đem đến hiệu quả mong
muốn vì tác dụng kháng nấm tùy thuộc vào từng loài Candida. trong khi phổ
nấm gây bệnh lại thay đổi theo vị trí địa lý! Nhiều báo cáo chứng tỏ
Fluconazole hiệu quả với C. albicans hơn các loài Candida khác(Error! Reference
source not found.). Nếu chọn phác đồ hiệu quả ưu tiên cho C. albicans như ở
nhiều nước trên thế giới, sẽ có nguy cơ thất bại đối với bệnh nhân nhiễm C.
non-albicans, một tác nhân chiếm tỉ lệ không nhỏ và đang có khuynh hướng
gia tăng ở nước ta. Vì vậy cần thực hiện những nghiên cứu dịch tễ học về
các tác nhân Candida ở Việt nam cũng như những thử nghiệm lâm sàng
nhằm đưa ra phác đồ điều trị thích hợp và quan tâm hơn nữa đến việc định
danh Candida gây bệnh.
Giá trị của thử nghiệm SOM
Kết quả từ bảng 2 cho thấy thử nghiệm SOM có độ nhạy cao (99,75%) xấp xỉ
với tiêu chuẩn vàng CHROMagar (100%) nhưng độ đặc hiệu thấp hơn (87,78%
so với 100%), xuất phát từ 12,2% dương giả xảy ra ở C. tropicalis và C.
dubliniensis. Đối với C. tropicalis, búp của tế bào hạt men có khả năng phát
triển thành ống mầm, nhất là khi ủ trên 3 giờ, dễ chẩn đoán lầm với C.
albicans(Error! Reference source not found.). Trường hợp C. dubliniensis, một loài C.
non-albicans được phát hiện gần đây, có nhiều đặc tính sinh học và hình thái
tương tự C. albicans(Error! Reference source not found.), bao gồm khả năng sinh ống
mầm và bào tử bao dày. Vì vậy, cần phối hợp với các phương pháp khác như
CRA, cấy trên SDA ủ ở 42 – 450C, lên men đường… để phân biệt với C.
albicans.
Các giá trị tiên đoán của TNSOM cũng đáng tin cậy (PV = 95,47%, PV =
98,75%), nếu kiểm soát được thời gian ủ canh cấy, độ chính xác của thử
nghiệm này có thể còn cao hơn.
Giá trị của kỹ thuật Dalmau
Theo bảng 3, độ nhạy của kỹ thuật Dalmau là 58,80%, thấp hơn nhiều so với
Casal & Linares (82,80%)(Error! Reference source not found.). Nói cách khác, 41,20%
trường hợp nhiễm C. albicans nhưng lại được định danh C. non-albicans. Sự
hình thành bào tử bao dày của C. albicans liên quan đến nồng độ oxy, chất dinh
dưỡng và nhiệt độ ủ (18 – 260C)(10). Thật vậy, nghiên cứu được tiến hành vào
mùa hè (32 – 380C); môi trường khoai tây-cà rốt-Tween 80 được điều chế tại
bộ môn nên nồng độ dinh dưỡng có thể chưa đạt hàm lượng tối ưu; sự lưu trữ,
cấy chuyển nhiều lần các chủng Candida spp. cũng làm giảm khả năng hình
thành bào tử bao dày của C. albicans. Phải chăng đó là những lý do gây ra sự
khác biệt ? Độ đặc hiệu 93,33% (bảng 3) thấp hơn so với thử nghiệm sinh bào
tử bao dày trên canh cấy Rice-Tween 80 của Cetinkaya Z. & cs. (100%)(Error!
Reference source not found.). Nguyên nhân có thể do 2,48% (8/323) C. dubliniensis
trong mẫu nghiên cứu được xác định là C. albicans vì bào tử bao dày của
chúng tương tự về hình dạng và cách sắp xếp. Ngược lại, Cetinkaye Z. đã
không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào nhiễm tác nhân này. Tuy vậy, về điều
trị, có thể chấp nhận dương giả do sai lầm trong xếp loại C. dubliniensis thành
C. albicans vì phác đồ điều trị C. albicans vẫn hiệu quả đối với C.
dubliniensis(Error! Reference source not found.).
Mặc dù giá trị tiên đoán âm thấp (49,44%) nhưng nồng độ ức chế tối thiểu
của các thuốc kháng nấm đối với C. non-albicans nói chung, cao hơn C.
albicans(Error! Reference source not found.). Nếu chẩn đoán lầm C. albicans thành C.
non-albicans, phác đồ của C. non-albicans vẫn diệt được C. albicans. Tuy
nhiên cần lưu ý tác dụng phụ và sự tốn kém do liều cao một cách vô tình!
So sánh TNSOM và TN Dalmau
So với phương pháp Dalmau, các giá trị của thử nghiệm SOM rất đáng tin
cậy để được lựa chọn trong phân biệt C. albicans và C. non-albicans (biểu
đồ 1). Khả năng dương giả của TNSOM tuy cao hơn nhưng đều rơi vào C.
dubliniensis hoặc C. tropicalis nên không ảnh hưởng đáng kể đến thực hành
lâm sàng vì C. albicans có mức độ đáp ứng thuốc tương tự C. dubliniensis
và nếu đảm bảo thời điểm đọc kết quả sẽ loại trừ được sự sinh ống mầm của
C. tropicalis.
Về kỹ thuật, ống mầm rất dễ nhận diện dưới kính hiển vi, trong khi màu sắc
khúm nấm trên môi trường CHROMAgar ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tính chủ
quan của người đọc cũng như tuổi của canh cấy. Tương tự, bào tử bao dày có
thể bị che lấp khi mật độ vi nấm dầy đặc hoặc bị ngoại nhiễm nấm mốc. Dù độ
đặc hiệu chưa hoàn hảo, nhưng TNSOM vẫn có nhiều ưu điểm: kết quả nhanh
sau 2 – 3 giờ (CHROMAgar hoặc Dalmau: 48 – 72 giờ), chi phí không cao,
thao tác đơn giản. Vấn đề còn bàn cãi là loại huyết thanh nào sẽ cho kết quả cao
nhất ? Nếu sử dụng huyết thanh gộp từ bệnh nhân sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến
khả năng sinh ống mầm gây âm tính giả do đã hoặc đang điều trị thuốc kháng
nấm. Theo y văn, huyết thanh ngựa thường được sử dụng, tuy nhiên khi so
sánh 4 môi trường : huyết thanh gộp của người, huyết thanh ngựa, peptone,
nước luộc đậu nành, Arora DR & cs. đã ghi nhận huyết thanh gộp của người là
môi trường tốt nhất kích thích sự hình thành ống mầm của C. albicans(1). Hơn
nữa, việc thu thập huyết thanh ngựa hiện nay ở Việt Nam chưa được dễ dàng.
Do vậy, vẫn có thể sử dụng huyết thanh người thu thập từ bệnh viện và nên
chọn lọc từ các trường hợp đến kiểm tra sức khỏe tổng quát, định kỳ hoặc chỉ
mắc các bệnh nội khoa thông thường … để giảm thiểu tối đa khả năng hiện
diện thuốc kháng nấm trong máu.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
C. albicans giữ vai trò chính trong các chủng phân lập từ bệnh nhân viêm âm
đạo hoặc đẹn miệng do nấm. Các loài C. non-albicans, mặc dù kém ưu thế hơn
nhưng chiếm một tỉ lệ không nhỏ (29,39%) có thể dẫn đến thất bại trong điều
trị nếu lựa chọn phác đồ theo y văn thế giới, những nơi mà C. albicans chiếm
80 – 95% các trường hợp nhiễm nấm Candida spp.
Thử nghiệm SOM chứng tỏ rất phù hợp với thực tế Việt Nam về giá trị chẩn
đoán, giá thành cũng như tính đơn giản, nhanh chóng trong định danh C.
albicans và C. non-albicans. Huyết thanh người thu thập7 từ bệnh nhân
không mắc các bệnh nhiễm khuẩn và không điều trị kháng nấm trước đó vẫn
tỏ ra hữu hiệu trong thử nghiệm này.
Cần tiến hành các nghiên cứu qui mô về sự phân bố của Candida spp. và hiệu
quả kháng nấm đối với các loài gây bệnh nhằm đưa ra phác đồ điều trị thích
hợp ở Việt Nam.