Mục tiêu: Ung thư thực quản, nằm trong 10 loại ung thư hàng đầu ở người Việt Nam(・ ). Mặc dầu y học
ngày càng tiến bộ, nhất là ngành phẫu thuật(2) nhưng riêng về bệnh ung thư thực quản phần lớn các bệnh nhân
khi đến viện đều ở giai đoạn muộn(7) không còn chỉ định phẫu thuật triệt để. Triệu chứng chính là nuốt nghẹn vì
vậy mục đích điều trị ung thư thực quản không mổ: giảm nuốt nghẹn và cải thiện chất lượng sống. Có nhiều
phương pháp điều trị không phẫu thuật, trong đó đặt stent vào thực quản cho kết quả khả quan. Mục tiêu chính
của đề tài là đánh giá kết quả điều trị 52 trường hợp đặt stent kim loại thực quản tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và Trung Tâm Y Khoa Medic trong thời gian 05 năm từ tháng 06/2007 đến 06/2012.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả từng trường hợp bệnh ở 52 bệnh nhân bị
ung thư thực quản quá chỉ định phẫu thuật và đồng ý đặt stent kim loại thực quản. Bên cạnh đó chúng tôi dựa
vào thang điểm nuốt nghẹn và thời gian sống còn của bệnh nhân để đánh giá kết quả điều trị.
Kết quả: Với 52 trường hợp đặt stent kim loại thực quản phần lớn là nam giới chỉ có 02 bệnh nhân nữ.
Bướu phân bố đều ở cả 3 vị trí: 04 ca 1/3 trên, 36 ca 1/3 giữa và 12 ca 1/3 dưới. Kết quả nghiên cứu, cả 52
trường hợp đều giảm triệu chứng nuốt nghẹn từ thang điểm 3 hoặc 4 xuống còn 1; có 01 trường hợp tắc nghẽn
lại sau 3 tháng, nhưng bệnh nhân từ chối đặt stent lần 2, còn lại vẫn nuốt tốt.
Kết luận: Chúng tôi nhận thấy kết quả đặt stent kim loại thực quản tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương cho
kết quả rất tốt giúp cải thiện được chất lượng sống và làm giảm tỉ suất bệnh – tỉ suất tử vong liên quan đến thủ
thuật.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị đặt stent kim loại thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 91
ĐIỀU TRỊ ĐẶT STENT KIM LOẠI THỰC QUẢN
Lê Quang Quốc Ánh*
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Mục tiêu: Ung thư thực quản, nằm trong 10 loại ung thư hàng đầu ở người Việt Nam(・). Mặc dầu y học
ngày càng tiến bộ, nhất là ngành phẫu thuật(2) nhưng riêng về bệnh ung thư thực quản phần lớn các bệnh nhân
khi đến viện đều ở giai đoạn muộn(7) không còn chỉ định phẫu thuật triệt để. Triệu chứng chính là nuốt nghẹn vì
vậy mục đích điều trị ung thư thực quản không mổ: giảm nuốt nghẹn và cải thiện chất lượng sống. Có nhiều
phương pháp điều trị không phẫu thuật, trong đó đặt stent vào thực quản cho kết quả khả quan. Mục tiêu chính
của đề tài là đánh giá kết quả điều trị 52 trường hợp đặt stent kim loại thực quản tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và Trung Tâm Y Khoa Medic trong thời gian 05 năm từ tháng 06/2007 đến 06/2012.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả từng trường hợp bệnh ở 52 bệnh nhân bị
ung thư thực quản quá chỉ định phẫu thuật và đồng ý đặt stent kim loại thực quản. Bên cạnh đó chúng tôi dựa
vào thang điểm nuốt nghẹn và thời gian sống còn của bệnh nhân để đánh giá kết quả điều trị.
Kết quả: Với 52 trường hợp đặt stent kim loại thực quản phần lớn là nam giới chỉ có 02 bệnh nhân nữ.
Bướu phân bố đều ở cả 3 vị trí: 04 ca 1/3 trên, 36 ca 1/3 giữa và 12 ca 1/3 dưới. Kết quả nghiên cứu, cả 52
trường hợp đều giảm triệu chứng nuốt nghẹn từ thang điểm 3 hoặc 4 xuống còn 1; có 01 trường hợp tắc nghẽn
lại sau 3 tháng, nhưng bệnh nhân từ chối đặt stent lần 2, còn lại vẫn nuốt tốt.
Kết luận: Chúng tôi nhận thấy kết quả đặt stent kim loại thực quản tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương cho
kết quả rất tốt giúp cải thiện được chất lượng sống và làm giảm tỉ suất bệnh – tỉ suất tử vong liên quan đến thủ
thuật.
Từ khóa: stent kim loại thực quản, nôi soi mật tụy ngược dòng
ABSTRACT
ENDOSCOPIC ESOPHAGEAL STENTING
Le Quang Quoc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2012: 91 ‐ 98
Aim: Esophageal cancer, one of the top ten cancers in Vietnamese. The aims of esophageal cancer treatment:
palliate dysphagia and improve survival. There are many non‐surgical therapies, esophageal stent give favourable
results. The main objective of our study was assess of efficacy esophageal stent in Public Nguyen Tri Phuong
Hospital and Medic Center in 05 years from 06/2007 to 06/2012.
Method: A descriptive case study of 52 patients who have inoperable esophageal cancer and accepted to stent
insertion. Besides, we used dysphagia score and survival time of patients to assess result of treatment.
Results: There are 52 insertion of esophageal stents cases who are man and tumor were distributed regular
locations: 04 cases 1/3 upper, almost cases in middle esophagus and 12 case in 1/3 distal. As a results, 52 cases
improve dysphagia from 3‐4 score to 1 score. In there, a recurrent dysphagia case by stent overgrowth have
indicate re‐stenting but he refused. Other cases are well.
Conclusion: We recognize that the result of metallic stent in esophageal at Public Nguyen Tri Phuong
Hospital and Medic Center are favourable to help improve survival and reduce morbidity and mortality by
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: PGS TS BS Lê Quang Quốc Ánh ĐT: 0903.826.535 Email: bsanhsdr@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 92
therapy.
Keywords: ERCP, metallic stent
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo khảo sát của Trung tâm Ung bướu Tp.
Hồ Chí Minh, ung thư thực quản nằm trong 10
loại ung thư hàng đầu ở người Việt Nam, ước
tính chiếm khoảng 7% trong ung thư ống tiêu
hoá. Năm 1993, có khoảng 11.300 trường hợp
ung thư thực quản được chẩn đoán ở Hoa Kỳ và
10.200 trường hợp tử vong(10). Trong đó, nam
chiếm tỉ lệ cao hơn ‐ Nam/Nữ: 3/1, Mỹ da đen
cao hơn Mỹ da trắng gấp 3 lần(13).
Thường thì bệnh nhân ung thư thực quản
không thể nhận ra hay không có triệu chứng cho
đến khi đường kính thực quản bị giảm đi 50‐
75%(4) mới có triệu chứng nuốt nghẹn, đau, do
đó tiên lượng kém. Tuy nhiên, tiên lượng sống
đang cải thiện, cách đây khoảng 35 năm, chỉ có
1% bệnh nhân Mỹ da đen và 4% Mỹ da trắng
sống sau 5 năm, so với 9% Mỹ da đen và 13%
Mỹ da trắng ngày nay(11).
Mục đích điều trị giảm nhẹ ung thư thực
quản: giảm nuốt nghẹn và cải thiện cuộc sống(9,8).
Có nhiều phương pháp điều trị ung thư thực
quản không còn chỉ định phẫu thuật triệt để: đốt
nhiệt, quang trị liệu, hoá trị, xạ trị, cho ăn bên
trong (ống mũi‐dạ dày, phẫu thuật dạ dày qua
da nuôi ăn bằng Nội soi), đặt stent kim loại
(Stent kim loại tự bung) với tỉ lệ thành công và
biến chứng khác nhau(13).
Đưa stent vào thực quản cho việc làm giảm
nhẹ dấu hiệu nuốt nghẹn trong bệnh lý thực
quản ác tính đã được làm trên 100 năm nay.
Năm 1959, Celestin(9) miêu tả việc đặt ống trong
bệnh ác tính thực quản với ống nhựa nhân tạo
qua nội soi được giới thiệu trong thủ thuật mổ
bụng. Thập niên 1970, Atkinson(4) đã giới thiệu
ống nhựa nhân tạo qua nội soi, với giảm tỉ lệ
biến chứng, đường kính trong của ống stent nhỏ
(10‐12 mm), kết quả nhiều bệnh nhân vẫn còn
khó khăn trong việc hồi phục chế độ ăn bình
thường. Chúng có tỉ lệ biến chứng cao tương đối
(>36%), chủ yếu do thủng thực quản. Tỉ lệ chết
liên quan đến thủ thuật 2‐16 %. Sau đó stent
nhựa đã được thay thế bởi stent kim loại tự
bung có độ an toàn cao, dễ đặt. Tuy nhiên, một
vài ghi nhận có sự khác biệt ở độ giảm chứng
khó nuốt giữa stent nhựa và stent kim loại, dù
rằng tỉ lệ biến chứng stent kim loại thấp hơn
nhiều.
Miêu tả đầu tiên của việc đặt stent kim loại
xoắn ốc tự bung qua nội soi được làm bởi
Frimberger năm 1983(3). Hiện tại có ít nhất 8 loại
stent kim loại khác nhau trên thị trường, có
màng bao phủ hay không.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả trường hợp bệnh, tiền
cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định đặt stent kim loại tự
bung thực quản vào bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và TT y khoa Medic đồng ý đặt trong
thời gian từ 06/2007 đến 06/2012.
Kỹ thuật chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn vào mẫu nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định đặt stent kim loại tự
bung thực quản(11):
1. Ung thư thực quản quá chỉ định phẫu
thuật triệt căn.
Rò khí quản‐thực quản.
Khối u nguyên phát hay thứ phát trong
trung thất chèn ép thực quản từ bên ngoài.
Thủng Thực quản từ tổn thương trực tiếp từ
Nội soi hay sau nong giãn chỗ chít hẹp.
Điều trị lỗ rò chỗ nối thực quản‐khí quản bởi
bệnh ác tính.
Tái phát khối u tại chỗ nối sau phẫu thuật.
Co thắt dai dẵng thực quản lành tính để
nong nhiều lần bằng Balloon và không thích hợp
cho phẫu thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 93
Bệnh nhân đồng ý cho việc đặt stent kim loại
thực quản:
Sẳn sàng tham gia và hợp tác tích cực với
nhân viên y tế trong việc điều trị và theo dõi
diễn tiến bệnh.
Tiêu chuẩn loại trừ khỏi mẫu nghiên cứu
Chống chỉ định đặt stent(11):
(Không có chống chỉ định tuyệt đối cho Stent
Thực quản)
Chống chỉ định tương đối
INR > 15 và Tiểu cầu < 50.000. Vì chảy máu
và thủng có thể xảy ra người ta đề nghị chỉ
làm trên Bệnh nhân có công thức máu bình
thường để làm giảm tối thiểu các biến chứng.
Liều cao gần đây sau xạ trị/hóa trị (3‐6 tuần),
vì ghi nhận tăng tỉ lệ chảy máu và thủng.
Những bệnh nhân bị suy kiệt nặng với thời
gian sống còn lại bị giới hạn.
Chèn ép khí quản do stent thực quản.
Chống chỉ định tuyết đối
Hẹp thực quản cao vùng xoang lê, bướu các
miệng thực quản < 2cm ảnh hưởng đóng dây
thanh âm sau đặt stent.
Vật liệu nghiên cứu
Thuận lợi của stent không có lớp bao phủ
(uncovered) là chúng ít khả năng di chuyển, đặc
biệt ngay ở tâm vị. Tuy nhiên, stent không bao
có bằng chứng cao về tắc stent do khối u phát
triển, vì vậy ngày nay các hãng sản xuất làm
thêm sản phẩm stent kim loại có bao (covering).
Stent thường được đặt dưới màn hình quang
tăng sáng cho phép đặt đúng chính xác vị trí.
Hình ảnh nội soi đơn thuần không thể xác định
chính xác đầu xa của mép khối u.
Những stent có sẵn trên thị trường thương
mại là(11):
* Gianturco‐Z stent: được làm bởi thép tinh
khiết và apolyethylene bao lấy các ngạnh ở
ngoài hoặc những đầu sáng không bao để
phòng ngừa di chuyển. Stent này cũng có sẳn
van chống trào ngược cho vị trí tâm vị.
* Ultraflex: làm bởi những mắc lưới đan xen
nhau và có sẳn cả bao lẫn không bao. Nó có lực
đồng tâm yếu nhất nhưng lại rất linh động.
Những stent này thích hợp cho những vùng
khúc khuỷu vùng 1/3 trên thực quản.
* Flamingo Wallstent là stent có hình thon
được làm từ hợp kim thép nguyên chất và được
bao chỉ ở bên trong. Nó được thiết kế cho việc
chống trào ngược qua tâm vị, như là hình nón có
thể ngăn ngừa dịch chuyển.
* Wallstent có lớp áo silicon bên trong với
những đầu sáng và được làm bởi hợp kim
nguyên chất đan xen thành hình lưới ống.
* Esophacoil: là stent không bao và được làm
từ sợi nhỏ Nitinol đơn. Nó có thể lấy lại được
qua nội soi ở vài bệnh nhân.
* Ferx‐Ella stent được làm từ thép nguyên
chất và được bao bên trong và ngoài bởi Nitinol,
đoạn xa có van chống trào ngược.
* Choo stent là stent được bao bởi
polyurethane làm từ Nitinol và có khả năng lấy
lại dựa qua nội soi nhờ kẹp vào sợi chỉ. Cũng có
van chống trào ngược đoạn xa bên trong.
* Memotherm là stent Nitinol sáng với bao
PTFE trong và ngoài.
* Song stent được sửa đổi từ Gianturco Z‐
stent làm từ thép nguyên chất với bao
Polyurethane. Stent này có khả năng lấy lại với
sợi dây dựa vào ống hình khung.
Phương pháp thu thập số liệu
Tất cả các bệnh nhân trong lúc nhập viện
đều được thu nhập các thông tin về: tuổi, giới,
địa chỉ, nghề, mã hồ sơ, lý do nhập viện, bệnh
sử, các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng.
Trong khi làm thủ thuật, số liệu sẽ được thu
thập qua ghi chép, quan sát cuộc nội soi và
tường trình thủ thuật.
Tất cả các thông tin thu thập đều được ghi
chi tiết vào bệnh án mẫu đã soạn sẵn với những
nội dung nghiên cứu.
Phương pháp phân tích
Đánh giá kết quả điều trị(9): dựa vào mức độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 94
cải thiện triệu chứng nuốt khó của Mello và
Pinkas, thang điểm được chấm như sau:
0= chế độ bình thường / không nuốt khó
1= chỉ có khả năng nuốt được thức ăn đặc.
2= chỉ có khả năng ăn được thức ăn nghiền
nhỏ.
3= khó trong việc nuốt dịch lỏng.
4= tắc nghẽn và nuốt khó hoàn toàn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian 05 năm từ 06.2007‐06.2012:
Trong độ tuổi từ 55‐85 tuổi.
Giới tính: Nam là 50 người, chỉ có 02 nữ giới.
Lí do nhập viện: Nuốt nghẹn: 52.
Triệu chứng
Nuốt nghẹn: 52
Sụt cân: 50
Đau ngực‐bụng: 40
Nôn: 48
Chán ăn 52
Khó tiêu: 52
Thang điểm nuốt nghẹn: Trước đặt Stent
Thang điểm 1: 12
Thang điểm 2: 20
Thang điểm 3: 14
Thang điểm 4: 06
Vị tríung thưthực quản:
Hình 1: Hình ảnh X quang bướu TQ 1/3 dưới
Hình 2: Nội soi: Bướu TQ Hình 3: Stent đã bung hoàn toàn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 95
Hình 4: Bướu TQ 1/3 giữa Hình 5: Stent TQ kim loại đã bung hoàn toàn
Hình 6: Hẹp TQ ngay dưới xương đòn do bướu Hình 7: X quang: Stent đã bung hoàn toàn
Hình 8: Nội soi: Bướu TQ Hình 9: Stent đã bung hoàn toàn
Giải phẫu bệnh
Carcinôm tế bào gai biệt hóa trung bình hay
kém xâm lấn: 50
Tăng sinh biểu mô gai, dị sản nhẹ: 2
Loại Stent được đặt
Flamingo stent 12
Ultraflex 40
Dấu hiệu sau đặt stent:
Đau ngực: 12
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 96
Nấc cụt: 2
Sốt: 20
Khàn giọng: 2
Đầy bụng 5
Ói: 9
Tình trạng theo dõi
Tái nuốt nghẹn do tắc stent sau 3 tháng: 2.
Nuốt bình thường sau đặt theo thang điểm
1: 50.
BÀN LUẬN
Ung thư thực quản ở nam giới chiếm đa số
(Nam:nữ = 4:1). Trong 52 trường hợp đặt stent
ngẫu nhiên của chúng tôi hầu hết là nam giới.
Theo nghiên cứu của Swagata Khanna về nội soi
đặt stent thực quản cho bệnh nhânung thưthực
quản tiến triển cũng với tỉ lệ nam nhiều hơn nữ
(6 nam, 2 nữ)(3).
Đối với ung thư thực quản, tiên lượng sống
rất kém, tỉ lệ sống 5 năm < 5 %, trong đó bướu có
vị trí ở 1/3 dưới thực quản (vị trí có thể mổ được)
tỉ lệ sống 5 năm là 15%, 1/3 giữa là 6%, còn ở 1/3
trên chỉ còn 1%. Nên mọi kế hoạch điều trị được
thay đổi cho từng bệnh nhân sao cho dựa vào(6,7):
Giai đoạn khối u
Triệu chứng
Tuổi và sức khỏe bệnh nhân
Nhu cầu và ước muốn của bệnh nhân
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 4 trường
hợp đặt stent kim loại đều có dấu hiệu nuốt
nghẹn ở thang điểm 2 và 3, có dấu hiệu nuốt
nghẹn thì thường khối u chiếm từ 50 – 75% lòng
thực quản, chứng tỏ bệnh được phát hiện rất
muộn, với lại cả 52 trường hợp đều lớn tuổi (trên
55 tuổi), sức khỏe không được tốt. Nên việc chỉ
định đặt Stent kim loại thực quản là chỉ định
phù hợp nhất.
Hình 10: Stent nằm đúng vị trí trước khi mở ra Hình 11: Stent bung từ đầu xa trước
Việc chọn lựa stent cũng là bước quan trọng
trong nghiên cứu của chúng tôi. Có 40 trường
hợpung thưthực quản 1/3 trên và giữa chúng tôi
đặt Stent Ultra, 12 trường hợp còn lại để chống
trào ngược thì đặt Flamingo stent (trong đó có 4
stent dạng có vale), trong đó có 04 trường hợp là
ung thư tại tâm vị ăn lên và 02 trường hợp bướu
lớn kéo dài từ 1/3 giữa đến 1/3 dưới cách tâm vị
chừng 02 cm, nên chúng tôi quyết định đặt stent
Flamingo. Chan và cộng sự chứng minh rằng:
stent Esophacoil là stent loại tốt trong việc chịu
đựng sức ép và lực gập góc so với Wall Stent,
Ultra Flex, Song và Gianturco stent. Stent Ultra
Flex chứng minh có lực mở rộng yếu nhất
nhưng chịu đựng lực gập góc tốt hơn stent Song
và Gianturco.
Người ta khuyên sử dụng stent không bao,
stent Flamingo hay Gianturco, tại vị trí tâm vị để
làm giảm nguy cơ di chuyển ở đoạn xa. Trào
ngược thực quản ‐ dạ dày xảy ra ở hầu hết bệnh
nhân ung thư tâm vị sau đặt stent(8,9). Điều này
có thể dẫn đến viêm phổi hít và dùng thuốc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 97
chống trào ngược. Vì vậy các hãng sản xuất chế
ra stent chống trào ngược: có 3 loại stent chống
trào ngược (Gianturco, FerX‐Ella và Choo stent)
đang được chọn lựa trên thị trường và được
chọn cho việc đặt xuyên qua tâm vị.
Stent nằm đúng vị trí trước khi mở ra. Stent
bung từ đầu xa trước.
Vị trí stent ở 1/3 trên và giữa thực quản nên
dùng Ultra Flex.
Những stent có bao có thể rút lại được sau
khi đặt (Choo và Song Stent), vì vậy stent kim
loại có bao được chỉ định đặt trong co thắt lành
tính dai dẳng.
Các triệu chứng sau thủ thuật đều nhẹ và chỉ
xuất hiện trong vài ngày là ổn định trở lại. Dấu
hiệu đau xuất hiện ở cả 04 trường hợp và theo
nghiên cứu của S H Lee, MBBS, FRCS, FRCR(5)
trong vai trò của stent thực quản trong điều trị
co thắt thực quản thì đau ngực sớm chiếm 100%
bệnh nhân, nhưng đau ngực kéo dài xảy ra ít
hơn 13 % bệnh nhân. Đau ngực có thể nghiêm
trọng ở những bệnh nhân với co thắt cao và khi
đường kính stent lớn.
Những biến chứng chính như: chảy máu,
thủng, viêm phổi hít, sốt và lỗ rò: 10‐20% bệnh
nhân(14).
Stent di chuyển:Stent uncovered: thấp (0‐
3%), tăng 6% khi Stent nằm ở vị trí Tâm vị; Stent
covered: 25‐32%.(14)
(Xử trí: nếu Stent di chuyển 1 phần thêm
1 Stent khác đồng trục chồng lên 1/2 trên Stent
di chuyển; Stent di chuyển toàn bộ thay Stent
mới. Stent di chuyển không triệu chứng trong
Dạ dày có thể lấy ra; Stent di chuyển có triệu
chứng lấy ra bằng mổ Dạ dày hay Nội soi. Cả
52 trường hợp của chúng tôi, bướu phát triển
làm chít hẹp lòng thực quản nhiều nên stent
không bị di chuyển.
Tăng trưởng khối u: Stent Uncovered: 17 –
36%. Stent Covered: hiếm khi bị hẹp lòng(14).
Tái phát nuốt khó: Do khối u lớn ra: 60%
((xử trí: đặt Stent đồng trục).
Tăng sinh biểu mô lành tính hay mô nhỏ.
(xử trí làm giảm triệu chứng: quang đông laser,
quang trị liệu, tia argon, tiêm alcohol, đặt Stent
lại).
Chèn ép khí quản, dù không phổ biến, được
ghi nhận khi điều trị co thắt 1/3 trên thực
quản.(14)
Xạ trị trước và sau đặt stent, cũng tăng nguy
cơ di chuyển stent.(14)
Biến chứng muộn:(14)
Xuất huyết: 3‐10%
Loét thực quản: 7%
Thủng và lỗ dò: 5%
Di chuyển stent: 5%
Gãy stent: 2%
Xoắn stent: 5%
Wang và cộng sự(1) đã tìm thấy những biến
chứng đe doạ cuộc sống (xuất huyết, rò, thủng
lớn và chèn ép khí quản) thì phổ biến ở những
bệnh nhân với vị trí đặt stent ở 1/3 trên thực
quản. Với stent Ultra Flex ít có biến chứng so với
Gianturco hay Wall stent.
Đặt stent kim loại thực quản thành công
được đánh giá qua tiêu chuẩn giảm nuốt nghẹn.
Trong số 52 trường đặt stent của chúng tôi, cả 52
đều có dấu hiệu cải thiện rất rỏ chứng nuốt
nghẹn được đánh giá xuống còn thang điểm 1
(ăn được với thức ăn nửa cứng và lỏng).
Trong nghiên cứu ʺHiệu quả của Stent Kim
loại trong ung thư thực quản không phẫu thuậtʺ
của Shinsuke Wada năm 2003(14) tỉ lệ nuốt nghẹn
giảm xuống Grade 1: 92,9% (trung bình: 92 –
98%). Điều này cho thấy đặt stent kim loại thực
quản mang lại hiệu quả chất lượng cuộc sống
cho bệnh nhân rất tốt và bệnh nhân được
chuyển từ chế độ dinh dưỡng bằng đường
truyền tĩnh mạch sang chế độ nuôi ăn qua
đường miệng. Tuy nhiên, các triệu chứng: nuốt
nghẹn trở lại ở những Bệnh nhân này do tăng
sản mô gây bít lại nên buộc phải đặt Stent lại. Vì
vậy nên đặt stent kim loại thực quản dạng có
bao để tránh biến chứng này. Đặt Stent Thực
quản được xem là phương án cuối cùng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 98
Hầu hết bệnh nhân tử vong trong vòng 4
tháng sau đặt stent. Theo Sinhsuke Wada(12),
bệnh nhân tử vong sau đặt stent trung bình là
123 ngày (từ 3 720 ngày sau khi đặt Stent),
nguyên nhân thường do bệnh ung thư nguyên
phát, xơ teo khí quản, thủng thực quản, xuất
huyết lượng lớn.
52 trường hợp của chúng tôi:
01 trường hợp ung thư thực quản 1/3 trên,
nghẹn tái phát sau 03 tháng, có chỉ định đặt
stent thứ 2 nhưng bệnh nhân từ chối.
39 trường hợp sau 06 tháng vẫn nuốt tốt. Tỉ
lệ sống còn trung bình 210 ngày (07 tháng).
KẾT LUẬN
Qua 52 trường hợp ung thư thực quản
không có chỉ định phẫu thuật triệt căn đã được
đặt stent kim loại thực quản tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, chúng tôi rút ra được
những nhận định như sau: các phương pháp
điều trị bảo tồn về ung thư thực quản thì stent
kim loại tự bung là phương pháp an to