Đặt vấn đề: Bong nơi bám chày dây chằng chéo trước (DCCT) độ IV được phân loại theo Meyer và
McKeever là một chấn thương bong nhiều mảnh di lệch nơi bám chày của DCCT khớp gối. Có nhiều cách điều trị
qua mổ mở hoặc nội soi như: bằng vít, đinh, chỉ thép hoặc khâu cố định. Khâu néo ép cố định dưới nội soi là kỹ
thuật tiến bộ mới ít xâm nhập vẫn còn nhiều thách thức trong nghiên cứu của các phẫu thuật viên hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phục hồi về lâm sàng và X quang sau khâu qua nội soi điều trị bong
nơi bám chày DCCT nhiều mảnhbằng chỉ PDS II
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Từ ngày 01 tháng 05 năm 2007 đến ngày 01 tháng 12 năm 2013,
có 56 trường hợp bong nơi bám chày DCCT độ IV được điều trị bằng kỹ thuật khâu dưới nội soi với chỉ PDS II,
cột cố định vào 1 vít 4.5 vào đầu trên xương chày (thực hiện tại Khoa Chi dưới, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh
Hình Tp. HCM). Phương pháp nghiên cứu là tiền cứu mô tả. Đánh giá kết quả dựa vào: đánh giá tầm vận động
khớp, dấu Lachmann và điểm số Lysholm, Noyes, kết quả X-quang sau mổ.
Kết quả: 56 bệnh nhân tuổi TB 29, được theo dõi trung bình 14 tháng. Điểm số trung bình sau mổ Lysholm
là 91, Noyes là 7,8 sau mổ test Lachmann thấy vững gối tốt là 52 ca (93%), lỏng độ II là 4 ca (7%). Tất cả trường
hợp hồi phục hoàn toàn tầm độ khớp. Thương tổn trong gối đi kèm 8 ca không ảnh hưởng nhiều đến kết quả phục
hồi. Tất cả đều đi làm lại như trước mổ. Không ghi nhận có trường hợp nào bị nhiễm trùng sau mổ. Khâu lại nơi
bám dây chằng bằng chỉ không tan đủ vững cho phép tập vận động sớm khớp gối lợi hơn kết hợp xương bên trong
bằng vít xốp phải mổ lấy ra lần thứ hai.
Kết luận: Nội soi khâu cố định lại chỗ bong nhiều mảnh nơi bám chày DCCT kỹ thuật khâu néo qua nội soi
là phương pháp an toàn và hợp lý. Khâu cố định mảnh gãy vững chắc, đúng vị trí giải phẫu bằng chỉ PDS II giúp
lành dây chằng tốt.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khâu cố định nhiều mảnh bị bong của dây chằng chéo trước (Độ IV) qua nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 73
KHÂU CỐ ĐỊNH NHIỀU MẢNH BỊ BONG CỦA DÂY CHẰNG CHÉO TRƯỚC
(ĐỘ IV) QUA NỘI SOI
Trương Trí Hữu* , Nguyễn Đình Chương*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bong nơi bám chày dây chằng chéo trước (DCCT) độ IV được phân loại theo Meyer và
McKeever là một chấn thương bong nhiều mảnh di lệch nơi bám chày của DCCT khớp gối. Có nhiều cách điều trị
qua mổ mở hoặc nội soi như: bằng vít, đinh, chỉ thép hoặc khâu cố định. Khâu néo ép cố định dưới nội soi là kỹ
thuật tiến bộ mới ít xâm nhập vẫn còn nhiều thách thức trong nghiên cứu của các phẫu thuật viên hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phục hồi về lâm sàng và X quang sau khâu qua nội soi điều trị bong
nơi bám chày DCCT nhiều mảnhbằng chỉ PDS II
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Từ ngày 01 tháng 05 năm 2007 đến ngày 01 tháng 12 năm 2013,
có 56 trường hợp bong nơi bám chày DCCT độ IV được điều trị bằng kỹ thuật khâu dưới nội soi với chỉ PDS II,
cột cố định vào 1 vít 4.5 vào đầu trên xương chày (thực hiện tại Khoa Chi dưới, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh
Hình Tp. HCM). Phương pháp nghiên cứu là tiền cứu mô tả. Đánh giá kết quả dựa vào: đánh giá tầm vận động
khớp, dấu Lachmann và điểm số Lysholm, Noyes, kết quả X-quang sau mổ.
Kết quả: 56 bệnh nhân tuổi TB 29, được theo dõi trung bình 14 tháng. Điểm số trung bình sau mổ Lysholm
là 91, Noyes là 7,8 sau mổ test Lachmann thấy vững gối tốt là 52 ca (93%), lỏng độ II là 4 ca (7%). Tất cả trường
hợp hồi phục hoàn toàn tầm độ khớp. Thương tổn trong gối đi kèm 8 ca không ảnh hưởng nhiều đến kết quả phục
hồi. Tất cả đều đi làm lại như trước mổ. Không ghi nhận có trường hợp nào bị nhiễm trùng sau mổ. Khâu lại nơi
bám dây chằng bằng chỉ không tan đủ vững cho phép tập vận động sớm khớp gối lợi hơn kết hợp xương bên trong
bằng vít xốp phải mổ lấy ra lần thứ hai.
Kết luận: Nội soi khâu cố định lại chỗ bong nhiều mảnh nơi bám chày DCCT kỹ thuật khâu néo qua nội soi
là phương pháp an toàn và hợp lý. Khâu cố định mảnh gãy vững chắc, đúng vị trí giải phẫu bằng chỉ PDS II giúp
lành dây chằng tốt.
Từ khóa: Bong nơi bám dây chằng chéo trước (DCCT), Nội soi khớp.
ABSTRACT
ARTHROSCOPIC SUTURE FIXATION OF DISPLACED COMMUNITED ANTERIOR CRUCIATE
LIGAMENT (ACL) AVULSION FRACTURES (DEGREE IV)
Truong Tri Huu, Nguyen Dinh Chuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 73 - 78
Background: Type IV of theAnterior cruciate ligament (ACL) avulsion which was classified by Meyers and
McKeever was displaced comminuted fractures. Now, arthroscopic reduction, surgical repair is emerging as the
state-of-the-art challenge of treatment.
Objectives: The aim of our study was to assess the clinical and radiological results of arthroscopic Suture
fixation with PDS IIin the management of ACL avulsion fractures
Materials and Methods of study: From 01 May 2007 to 01 December 2013, 56 cases of ACL tipial
avulsions in degree IV were treated with Arthroscopic reduction, internal fixationusing PDS II nonabsorbable
* Khoa Chi dưới Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trương Trí Hữu ĐT: 0918591576 Email:truongtrihuu08@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 74
sutures passed through drill holes and tied over 4.5 screw in the tibial tubercle is now preferred (in the Lower
Limb Deparment, Hospital of Traumatologyand Orthopeadic, HCM city). Method of study is desciptive
prospective. All patients were assessed clinically by calculating their Lysholm, Noyes scores and Lachmann test,
ROM of knee, and the radiological union was assessed in the followup radiographs.
Results: There are 56 patients. The mean age was 29 yearswith a mean followup of 14 months. The mean
Lysholm score was 91 and Noyes Scores was 7.8 at the final follow-up. In 52 (93%) patients Lachman test was
negative at the end of final followup while 4 (7%) patients had grade II laxity. ROM of knee in 56 cases is normal.
Associated knee injuries were found in 8 cases. The final outcome was not greatly influenced by the presence of
associated injuries when treated simultaneously. At final followup all the patients were able to return to their pre-
injury occupation..The radiological union was observed in all cases. No case was infectious in post-opperation.
Repair using nonabsorbable suture fixation, when of adequate strength to allow early range-of-motion, has the
advantages of eliminating the risks of comminution of the fracture fragment, posterior neurovascular injury, and
without hardware removal, compared with internal fixation using screws.
Conclusion: Arthroscopic suture fixation is a safe and reliable method for producing clinical and radiological
outcome in displaced communited ACL avulsion fractures. Arthroscopic anatomic reduction, internal
fixationusing PDS II nonabsorbable sutures passed through drill holes and tied over 4.5 screw in the tibial
tubercle is favor for healing ligament.
Key words: Anterior cruciate ligament (ACL) avulsion, arthroscopy.
MỞ ĐẦU
Gãy bong nơi bám chày dây chằng chéo
trước (DDCT) là bong mảnh sụn xương ngay tại
chỗ bám vào mâm chày của DCCT. Nguyên
nhân chủ yếu là do tai nạn lưu thông hay thể
thao, khi có một lực tác động mạnh làm căng đột
ngột quá mức DCCT, làm bong mảnh sụn và
xương dưới sụn tại nơi bám chày DCCT. Tổn
thương này nếu không được điều trị gây lỏng
khớp gối ra trước làm mất vững gối trong lao
động và hoạt động thể thao.
Tổn thương này được chia làm 4 độ theo
Meyers, Keevers và Zaricznyj(4), trong đó độ I và
độ II thường có thể điều trị bảo tồn hay phẫu
thuật cố định vít khá đơn giản; độ III gãy di lêch
nhiều, độ IV gãybong nhiều mảnh nhỏ di
lệchnhiều là loại có chỉ định phẫu thuật,loại gãy
độ IV này gây thách thức cho các phẫu thuật
viên làm sao để phục hồi lại giải phẫu.Tuy nhiên
tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hìnhvà tại
các bệnh viện khác ở Việt Nam(2,3,8) theo kinh
điển phương pháp điều trị là cố định mảnh gãy
bằng vít xốp 4.0 qua mổ mở, phương pháp này
chỉ có tác dụng đối với các trường hợp mảnh gãy
lớn, không phải là loại gãy nhiều mảnh, còn khi
gãy bong nhiều mảnh nơi bám DCCT (Độ IV) thì
khó khăn trong việc cố định vững các mảnh gãy
bằng vít xốp và khi mổ mở dễ làm tổn thương
bao khớp, cố định vít trong khớp đôi khi làm cấn
sụn khớp gây vỡ thêm dẫn đến việc tập phục hồi
chức năng sau mổ khó khăn nhất là khó tập duỗi
thẳng, cũng như có thêm nguy cơ nhiểm trùng
sau mổ.
Hiện nay trên thế giới đều áp dụng phương
pháp cố định mảnh gãy bong nơi bám chày
DCCT dưới nội soi(1,7,9,10). Vì phương pháp này
hạn chế tổn thương bao khớp, không cấn vít bên
trong khớp giúp tập phục hồi chức năng sớm,
giảm nhiễm trùng và qua nội soi có thể thấy
được các tổn thương khác của khớp gối như rách
sụn chêm, tổn thương mặt sụn trong lúc chấn
thương mà khi mổ mở khó thấy được
Mặc dù trong nước có rất nhiều phẫu thuật
viên đãáp dụng nội soi trong việc điều trị các
bệnh lý về dây chằng và sụn chêm khớp gối
nhưng có rất ít những báo cáo chuyên biệt về
điều trị bong nơi bám chày DCCT loại IV (gãy
bong nhiều mảnh) qua nội soi. Đối với loại này
vấn đề phức tạp từ cơ chế chấn thương đến đặc
điểm giải phẫu thương tổn các mảnh này ra sao.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 75
Cần thiết sử dụng hình ảnh học nào là đủ cần
thiết cho chẩn đoán chính xác kèm tiết kiệm kinh
phí. Bước kế tiếp là khó khăn trong xử trí qua nội
soi làm thế nào nắn để đính lại các mảnh, khâu
neo bao nhiêu mối là đủ vững(6), có cần lấy đi
mảnh không bám dây chằng. Vấn đề cuối cùng
là chế độ bất động và tập luyện ra sao cho
thương tổn dễ lành kèm phục hồi chức năng
hiệu quả.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả phục hồi về lâm sàng và X
quang sau khâu qua nội soi điều trị bong nơi
bám chày DCCT nhiều mảnhbằng chỉ PDS II
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ ngày 01 tháng 05 năm 2007 đến ngày 01
tháng 12 năm 2013, có 56 trường hợp bong nơi
bám chày DCCT độ IV được điều trị bằng kỹ
thuật khâudưới nội soi với chỉ PDS II, cột cố định
vào 1 vít 4.5 vào đầu trên xương chày (thực hiện
tại Khoa Chi dưới, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh
Hình Tp. HCM). Phương pháp nghiên cứu là tiền
cứu mô tả
Đánh giá kết quả dựa vào: đánh giá tầm vận
động khớp, dấu Lachmann và điểm số Lysholm,
Noyes, kết quả X-quang sau mổ.
Phương pháp phẫu thuật
Bệnh nhân được tê tủy sống, nằm ngửa trên
bàn mổ, ga-rô đùi, gối gập tự do khoảng 90°.
Nội soi vào khớp gối theo đường vào chuẩn,
dùng shaver cắt một phần bao khớp và lớp mỡ
sau gân bánh chè để quan sát rõ hơn, thấy:
- DCCT còn liên tục, chỉ bị bong ngay điểm
bám chày một mảnh sụn xương, di lệch lên cao.
- Quan sát DCCS không thấy bị tổn thương.
Nếu có sụn chêm bị rách thì qua nội soi cắt sửa
tạo hình sụm chêm hay khâu.
- Chúng tôi áp dụng phương pháp khâu
nhiều lần qua phía trên mảnh gãy bằng chỉ PDS
II số 0, sau đó luồn xuống dưới và cột néo bằng 1
vít 4.5mm tương tự như phương pháp của
Matthews(7,1).
Hình 1: Hình vẽ khoan đường hầm và khâu dây
chằng qua nội soi
Nắn lại ổ gãy bằng móc, đặt dụng cụ định vị
lên mảnh gãy với góc khoan khoảng 50 độ ,
khoan 1 kim Kirscher 2.4mm từ dưới lên trên
qua đường dẫn của bộ định vị để cố định tạm
mảnh gãy.
Đục thêm một lỗ vào khớp gối ở giữa 2 lỗ
trước ngoài và trước trong (tạm gọi là lỗ giữa),
sau đó qua lỗ trước trong dùng một kim khâu
(suture guide) khâu từ trong ra ngoài ngang qua
DCCT ngay phía trên mảnh gãy, thường dùng
lưỡi khâu có góc chếch lên khoảng 45 độđể dễ
thao tác, điểm khâu tốt nhất là đoạn 2/3 sau chu
vi DCCT, luồn chỉ PDS II số 0 (Polydioxanone II,
Ethicon, Johnson&Johnson Co)(1,6) qua kim khâu
này rồi kéo đầu chỉ ra lỗ giữa, lặp lại cách khâu
này tương tự ba hoặc bốn lần nữa.
Ở vùng đầu trên xương chày, bên trong lồi
củ chày cách lồi củ chày khoảng 1 – 1,5cm và với
trợ cụ định vị nội soi, chúng tôi khoan 2 đường
hầm song song, đường kính mỗi đường hầm là
2.4mm, lỗ ra ngay điểm trước ngoài và trước
trong giường mâm chày.
Qua hai đường hầm mới khoan, luồn kéo
chỉ xuống dưới, 2 sợi chỉbắt chéo ngay trên
mảnh gãy theo hình số 8, các sợi còn lại băng
ngang qua mảnh gãy, duỗi gối tối đa cột chỉ cố
định qua cầu xương trước một mối, sau đó cột
neo vào một vít 4,5mm, khi vặn vít từ từ thấy
chỉ căng ra từ từ, mảnh gãy dần dần được néo
ép vào giường mâm chày đúng vị trí bị bong
tróc, DCCT căng dãn tối đa để vững khớp gối
sau này.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 76
Hình 2: Khâu luồn qua đường hầm song song đường
kính 2.4mm (Nguồn: Jinzhong Zhao và Xiaoqiao
Huangfu(11)
Xả ga-rô, khâu vết mổ, dẫn lưu khớp gối. Sau
mổ thử lại Lachmann test (-).
Săn sóc và tập VLTL sau mổ
Sau mổ bệnh nhân được bó bột ống để bất
động khớp gối, có mở cửa sổ bột săn sóc vết
thương, dẫn lưu rút sau 24 giờ. Ngay hôm sau
khi phẫu thuật, bệnh nhân được hướng dẫn đi 2
nạng chịu lực chân đau một phần, tập gồng cơ
trong bột, lực chịu sức nặngtăng dần qua những
ngày sau đó.
Cắt bột sau khoảng 3 tuần, lúc đó bệnh nhân
bớt đau, gối bớt sưng. Lúc này bắt đầu tập co-
duỗi gối tích cực, đi nang chịu sức nặng tăng
dần. Sau 2 tháng, khớp gối gấp-duỗi hoàn toàn,
bắt đầt tập cơ tứ dầu đùi bằng cách nâng tạ, tập
đạp xe đạp. Sau 3 tháng có thể tập chạy nhe, tập
bơi , sau 6 tháng có thể chơi thể thao.
KẾT QUẢ
Xác định chẩn đoán bong nơi bám chày DCCT
nhiều mảnh (độ IV) qua khám lâm sàng, hình
ảnh X-Quang và nội soi
Khám lâm sàng trước mổ bằng các nghiệm
pháp như dấu Lachman, dấu ngăn kéo
trước,để đánh giá sự mất vững của khớp gối,
từ đó có thể chẩn đoán sơ bộ về tổn thương
dây chằng chéo trước.
Chụp X- Quang khớp gối thương quy ở 2 tư
thế thẳng – nghiêng giúp chẩn đoán xác định
gãy bong nơi bám chày DCCT nhiều mảnh (độ
IV) trên 80% trường hợp. Chụp cộng hưởng từ
(MRI) chần đoán chính xác các trường hợp gãy
bong nơi bám chày dây chằng chéo trước nhưng
giá thành cao, tốn kém. Qua MRI có thể xác định
những tổn thương kết hợp như: đứt DCCT, đứt
DCCS, rách sụn chêm v.v
Nội soi khớp gối cho chẩn đoán chính xác
nhất, có thể phát hiện những đường nứt nhỏ
mà trên phim X- Quang không thấy, từ đó
phân độ tổn thương chính xác hơn. Qua nội
soi cũng có thể phát hiện và điều trị những tổn
thương kết hợp với gãy bong nơi bám chày
dây chằng chéo trước.
Kết quả điều trị: sự nắn chỉnh phục hồi giải
phẫu, sự liền xương và sự phục hồi chức năng
khớp gối
Gãy bong nơi bám chày dây chằng chéo
trước nhiều mảnh (độ IV) khó nắn chỉnh phục
hồi giải phẫu hơn các loại khác như độ II, độ
III. Tuy nhiên phương pháp nội soi khâu néo
ép bằng nhiều sợi chỉ PDS điều trị gãy bong
nơi bám chày dây chằng chéo trước nhiều
mảnh đạt kết quả nắn chỉnh tốt. Trong lúc nắn
ổ gãy cần chú ý lấy hết mô sơ và những mô
mềm xung quanh chèn vào ồ gãy, nhất là sừng
trước sụn chêm.
Nội soi thấy rõ lấy hết mô mềm chèn vào ổ
gãy và được nắn chỉnh tốt nên tỉ lệ liền xương
là 100%.
Sự phục hồi chức năng khớp gối sau mổ tốt,
chỉ số Lysholm trung bình đạt 91 điểm, điểm
triệu chứng theo thang điển Noyes trung bình
đạt 7,8 điểm.
Sau mổ test Lachmann thấy vững gối tốt là
52 ca (93%), lỏng độ II là 4 ca (7%). Tất cả trường
hợp hồi phục hoàn toàn tầm độ khớp.Thương
tổn trong gối đi kèm 8 ca không ảnh hưởng
nhiều đến kết quả phục hồi. Tất cả đều đi làm lại
như trước mổ.
Biến chứng di lệch thứ phát sau mổ chiếm tỉ
lệ khoảng 3%, hạn chế tầm vận động khớp
khoảng 5%, không có trường hợp nào bị nhiễm
trùng sau mổ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 77
BÀN LUẬN
Bong nơi bám chày dây chằng chéo trước
(DCCT) là một chấn thương cũng thường hay
gặp ở khớp gối, nguyên nhân thường do tai nạn
giao thông gây nên. Những trường hợp bong nơi
bám chày DCCT di lệch độ III, IV (phân loại theo
Meyer và McKeever) có chỉ định phẫu thuật cố
định mảnh xương gãy. Bệnh nhân đến khám
thường có các triệu chứng như: sưng, đau khớp
gối, mất vững khớp gối ra trước, hạn chế tầm
vận động khớp. Từ trước tới nay tại Bệnh viện
Chấn Thương Chỉnh Hình nói riêng cũng như ở
hầu hết các Bệnh viện tại Việt Nam nói chung,
các Phẫu thuật viên thường dùng phương pháp
mổ mở cố định mảnh gãy bằng vít xốp(2,3).
Phương pháp này có ưu điểm là dễ làm, thời
gian mổ nhanh, không cần trang bị hệ thống
máy nội soi khớp; nhưng cũng có những khuyết
điểm: chỉ áp dụng tốt trong các trường hợp gãy
mảnh lớn (Độ I, II, III) còn đối với các trường
hợp gãy nhiều mảnh (Độ IV) thì vít xốp cố định
không hiệu quả, đồng thời khi mổ mở sẽ làm tổn
thương bao khớp nhiều gây khó khăn trong việc
tập VLTL phục hồi sau mổ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nội soi,
các phẫu thuật viên trên thế giới thường cố định
mảnh bong nơi bám DCCT bằng vít hoặc khâu
néo dưới nội soi. Kỹ thuật khâu néo hình số 8 cố
định mảnh xương trong bong nơi bám chày
DCCT đã được hai tác giả người Trung Quốc là
Jinzhong Zhao, Xiaoqiao Huangfu(11) thực hiện
vào năm 1998 và đến năm 2005 đã điều trị hơn
200 bệnh nhân, kết quả thu được rất tốt.
Trước đây chúng tôi cũng thường cố định
bong nơi bám chày DCCT bằng vít qua mổ mở,
sau khi áp dụng kỹ thuật khâu néo bằng chỉ PDS
dưới nội soi chúng tôi nhận ra một số ưu điểm
và khuyết điểm của phương pháp này như sau:
Ưu điểm
Nội soi thấy tổn thương rõ hơn, ít làm tổn
thương bao khớp, sẹo thẩm mỹ.
Khâu cố định bằng chỉ PDS II vững chắc hơn
bắt vít.
Phục hồi chức năng khớp gối sau mổ tốt hơn.
Điều trị tốt cho loại bong nhiều mảnh
Áp dụng điều trị cho mọi lứa tuổi từ thanh
thiếu niên đến người lớn, vì do thanh thiếu niên
còn sụn tăng trưởng nên tránh bắt vít.
Khuyết điểm
Cần có hệ thống máy nội soi hoàn chỉnh.
Phẫu thuật viên phải được huấn luyện về nội
soi khớp gối.
Kỹ thuật thực hiện phức tạp hơn so với mổ
mở bắt vít, thời gian mổ lâu hơn.
KẾT LUẬN
Phương pháp khâu néo ép nhiều sợi chỉ PDS
II số 0 qua nội soi điều trị những trường hợp
bong nơi bám chày dây chằng chéo trước khớp
gối nhiều mảnh(độ IV) đạt kết quả tốt, chức
năng khớp gối sau mổ hồi phục tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bong MR, et al (2005). “Suture Versus Screw Fixation of
Displaced Tibial Eminence Fractures: A Biomechanical
Comparison”, Arthroscopy, 21(10): 1172 – 1176.
2. Bùi Hồng Thiên Khanh (2008). “Nhân một trường hợp đính
lại nơi bám dây chằng chéo trước qua nội soi khớp gối”, Hội
Chấn Thương Chỉnh Hình Tp. Hồ Chí Minh, Hội nghị
thường niên lần thứ XV, tr. 212 – 215.
3. Lê Hanh (2003), “Đánh giá kết quả phẫu thuật đính lại điểm
bám dây chằng chéo trước qua nội soi”, Luận văn Thạc sĩ Y
học, Học viện quân y.
4. Lubowitz JH, Elson WS, Guttmann D. (2005), Arthroscopic
treatment of tibial plateau fractures: intercondylareminence
avulsion fractures, Arthroscopy, 21(1): 86 – 92.
5. Lysholm J, Gillquist J (1982), Evaluation of knee ligament
surgery results with special emphasis on use of a scoring
scale”, Am J Sports Med., 10(3): 150-154.
6. Mahar A., et al (2004). “Biomechanical Comparison of Three
Different Fixation Techniques for Tibial Eminence Avulsion
Fractures: Sutures vs. Bioabsorbable Nails vs. Bioabsorbable
Screws”, 50th Annual Meeting of the Orthopaedic Research
Society, Deparment of Orthopeadics, University of California –
San Francisco.
7. Matthew DE, Geissler WB (1994). Arthroscopic suture fixation
of displaced tibial eminence fractures” Arthroscopy, 10(4): pp.
418 – 423.
8. Nguyễn Thành Tâm (2011). “Nghiên cứu điều trị gãy bong
điểm bám chày của dây chằng chéo trước khớp gối bằng kỹ
thuật khâu chỉ néo ép qua nội soi, Luận văn Chuyên Khoa
Cấp II, Đại học Y Dược Tp. HCM.
9. Shook JB, Frank HG, Freedman KB (2006). “Arthroscopic
suture fixation of tibial eminence fractures”, Orthopedics, 29 (7):
577 - 581
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 78
10. Vega JR, Irribarra LA , et al (2008). “Arthroscopic fixation of
displaced tibial eminence fracture: a new growth plate-
sparing method”, Arthroscopy.24(11):1239-1243.
11. Zhao J, Huangfu X (2007). “Arthroscopic treatment of
nonunited anterior cruciate ligament tibial avulsion fracture
with figure-of-8 suture fixation technique.”, Arthroscopy, 23(4):
405 – 410.
Ngày nhận bài báo: 4/9/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 8/9/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015