Nghiên cứu hiệu quả của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng

Mục đích: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả và các tác dụng phụ của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 47 bệnh nhân. Các bệnh nhân được gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng để vô cảm và giảm đau cho phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Mạch, huyết áp, nhịp thở và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân được theo dõi trước và sau khi tiêm thuốc giảm đau. Chúng tôi phối hợp chặt chẻ với các phẫu thuật viên và đặc biệt là điều chỉnh liều thuốc giảm đau đúng lúc. Xác định tỷ lệ các tai biến biến chứng trong và sau mổ. Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình: 96,7 ± 18,3 phút Thang điểm đánh giá đau VAS: trên 90% từ 1 đến 3 điểm.Tỷ lệ các biến chứng: Tụt huyết áp: 19,1%, đau đầu: 2,1%, đau lưng: 4,2%, rối loạn bàng quang: 6,4%, lạnh run: 8,5%, buồn nôn, nôn: 6,4%. Không ghi nhận các tác dụng phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng. Kết luận: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Sự theo dõi chặt chẽ trong và sau phẫu thuật để phát hiện và xử trí kịp thời những tai biến biến chứng xảy ra sẽ góp phần cho sự thành công.

pdf9 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 328 NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG KẾT HỢP GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG PHẪU THUẬT THAY KHỚP GỐI, KHỚP HÁNG Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Thi Hùng**, Nguyễn Văn Chừng* TÓM TẮT Mục đích: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả và các tác dụng phụ của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 47 bệnh nhân. Các bệnh nhân được gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng để vô cảm và giảm đau cho phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Mạch, huyết áp, nhịp thở và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân được theo dõi trước và sau khi tiêm thuốc giảm đau. Chúng tôi phối hợp chặt chẻ với các phẫu thuật viên và đặc biệt là điều chỉnh liều thuốc giảm đau đúng lúc. Xác định tỷ lệ các tai biến biến chứng trong và sau mổ. Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình: 96,7 ± 18,3 phút Thang điểm đánh giá đau VAS: trên 90% từ 1 đến 3 điểm.Tỷ lệ các biến chứng: Tụt huyết áp: 19,1%, đau đầu: 2,1%, đau lưng: 4,2%, rối loạn bàng quang: 6,4%, lạnh run: 8,5%, buồn nôn, nôn: 6,4%. Không ghi nhận các tác dụng phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng. Kết luận: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. Sự theo dõi chặt chẽ trong và sau phẫu thuật để phát hiện và xử trí kịp thời những tai biến biến chứng xảy ra sẽ góp phần cho sự thành công. Từ khóa: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng, giảm đau ngoài màng cứng, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, phẫu thuật thay khớp. ABSTRACT EVALUATE THE EFFICIENCY OF COMBINED SPINAL - EPIDURAL ANESTHESIA FOR KNEE AND HIP ARTHROPLASTY Nguyen Van Chinh, Nguyen Thi Hung, Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 328 - 336 Purpose: This study is performed to evaluate the efficiency and side - effects of combined spinal - epidural anesthesia for knee and hip arthroplasty. Methods: Prospective study on 47 patients. All of them have undergone combined spinal - epidural anesthesia for knee and hip arthroplasty. Pulse, blood presure, resspiratory rate and health status of the patients were monitored right before and after analgesic injection. We must collaborate with the surgeon and specially the adjustment in analgesic drugs must be carried down at time. To determine the proportion of complications during and after the operation. Results: Duration of the intervention: 96,7 ± 18,3 minutes. VAS score: over 90% from 1 to 3. The proportion of complications: hypotension: 19.1%, headache: 2.1%, backache: 4.2%, urinary retention: 6.4%, shivering: 8.5%, nausea and vomiting: 6.4%. Side-effects, accidents and complications were not noted.  Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Văn Chinh, ĐT: 0903885497, Email: chinhnghiem2006@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 329 Conclusions: Combined spinal - epidural anesthesia for knee and hip arthroplasty is safe and effective. Close careful monitoring during and after the operation must be applied in order to detect and manage in time complications. It will contribute to succesful method. Keyword: Combined Spinal - Epidural Anesthesia, Epidural Analgesia, Health Status of Patients, Arthroplasty. ĐẶT VẤN ĐỀ Giảm đau luôn là vấn đề được bệnh nhân và thầy thuốc quan tâm, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại khoa. Đau tạo nên nỗi sợ hãi cho bệnh nhân khi phải đi mổ làm ảnh hưởng đến kết quả hồi phục sức khỏe và tâm lý của bệnh nhân. Như vậy, việc lựa chọn một phương pháp vô cảm phù hợp và thực hiện tốt việc giảm đau trong và sau mổ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho bệnh nhân trong cuộc mổ và phục hồi sức khỏe sau mổ. Đồng thời, giúp bệnh nhân vận động trở lại sớm, hạn chế được nhiều biến chứng, góp phần vào sự thành công của phẫu thuật và có thể rút ngắn thời gian nằm viện. Phương pháp gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) đã được áp dụng rộng rãi từ lâu trong chuyên ngành GMHS. GTNMC có luồn catheter đã được Curbelo thực hiện công trình nghiên cứu đầu tiên vào năm 1949 tại Cuba. Dùng kết hợp 2 phương pháp này để giảm đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy làm giảm những biến chứng trong và sau mổ, cải thiện tình trạng phục hồi chức năng sau mổ và giảm tỷ lệ tử vong sau mổ của các phẫu thuật nặng như thay khớp gối, khớp háng...(7,10) Trong phẫu thuật chỉnh hình chi dưới, đặc biệt là những phẫu thuật lớn như phẫu thuật thay khớp háng, khớp gối, thường được thực hiện trên những bệnh nhân cao tuổi, có kèm theo nhiều bệnh lý nội khoa, công tác chăm sóc hậu phẫu khá phức tạp. Đồng thời, bệnh nhân lại cần phải vận động sớm sau mổ. Vì vậy, vấn đề giảm đau sau mổ được các nhà Gây mê Hồi sức cũng như các nhà phẫu thuật quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên, liệu phương pháp GTTS kết hợp GTNMC (CSE) có thực sự hiệu quả giảm đau và an toàn để áp dụng cho các phẫu thuật thay khớp háng, khớp gối hay không? Phương pháp này có những tác dụng không mong muốn gì? Chính vì những câu hỏi trên mà chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu nghiên cứu: - Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau mổ của gây tê tủy sống kết hợp với gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng. - Xác định tỷ lệ các tai biến, biến chứng và mức độ hài lòng của bệnh nhân trong quá trình thực hiện. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiền cứu, can thiệp lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng và khớp gối tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, thời gian từ 01/ 2010 đến 08/ 2011. Kỹ thuật chọn mẫu Tiêu chuẩn nhận Không có chống chỉ định gây tê tủy sống, GTNMC. Có chỉ định phẫu thuật thay khớp gối hoặc khớp háng. Có yêu cầu được làm giảm đau NMC Tiêu chuẩn loại Bệnh nhân đang nhiễm khuẩn toàn thân, tình trạng sốc, hay thiếu khối lượng tuần hoàn. Không thực hiện chọc dò NMC được. Có chống chỉ định GTNMC: - Tiền sử dị ứng thuốc tê hoặc thuốc họ Morphin - Có dị dạng, bệnh lý cột sống. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 330 - Rối loạn đông máu - Nhiễm khuẩn tại chỗ chọc kim - Có bệnh của hệ thần kinh trung ương, tăng áp lực nội sọ. - Bệnh nhân không giao tiếp được. - Thu thập thiếu số liệu. Phương tiện và trang thiết bị Phương tiện theo dõi và hồi sức: nguồn dưỡng khí, ống nghe tim phổi, máy đo HA động mạch, nhiệt độ, kim luồn 20G, 18G máy monitor theo dõi: mạch, huyết áp, điện tâm đồ, đo độ bão hòa oxy (pulse oximeter), Dụng cụ gây tê tủy sống và GTNMC: kim tê tủy sống, bộ GTNMC, hộp đựng dụng cụ gây tê đã vô khuẩn, bơm tiêm điện liên tục, găng tay vô khuẩn. Thuốc và dịch truyền: Lidocaine 2% 2ml, Bupivacain (Marcain) 0,5%, 20ml, Bupivacain for Spinal (Marcain) 0,5%, 4ml, Fentanyl 100 mcg (2ml). Thuốc sát khuẩn, cấp cứu, dịch truyền: Phương thức tiến hành Chọn bệnh theo yêu cầu tiêu chuẩn nhận và tiêu chuẩn loại. Thăm khám, giải thích và chuẩn bị bệnh nhân như một cuộc gây mê bình thường: thăm khám tiền mê, đặc biệt vùng lưng, cột sống, các chức năng vận động kiểm tra các xét nghiệm thường qui, các yếu tố đông máu, điện tâm đồ Đánh giá, phân loại nguy cơ theo ASA, kiểm tra những chỉ định và chống chỉ định của GTNMC. Giải thích cho bệnh nhân ký phiếu yêu cầu được làm giảm đau. Thực hiện phương pháp GTNMC và gây tê tủy sống: - Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên bằng kim luồn 20G hay 18G, dung dịch NaCl 0,9% hay Lactate Ringer - Gắn monitor theo dõi sinh hiệu, cho BN thở oxy 2-3 lít/ phút. - Đặt BN nằm nghiêng tư thế cong lưng tôm. Mốc chọc dò GTNMC và luồn catheter là khoảng liên đốt sống thắt lưng 3-4. - Người thực hiện rửa tay, mang găng, sát khuẩn vùng chọc bằng Betadin, trải khăn lỗ. - Tê tại chỗ thắt lưng 3-4 với Lidocaine 2% 2ml hay Marcain 0,5% 1ml (5mg). GTNMC thắt lưng 3-4 với độ sâu khoang NMC tuỳ theo BN. - Xác định khoang ngoài màng cứng bằng kỹ thuật “Mất sức cản”, luồn catheter vào khoang NMC với độ sâu 5 cm. Bơm liều test Lidocaine 2% 2ml có Adrenaline 1/200.000. - Thực hiện phương pháp gây tê tủy sống ở khoảng liên đốt sống thắt lưng 4-5, bơm thuốc Bupivacaine tăng trọng 2ml (10mg) pha với Fentanyl 20mcg vào tủy sống. - Cố định catheter bằng băng keo trong, cho BN nằm ngữa và bắt đầu phẫu thuật. - Sau khi mổ xong, chúng tôi duy trì liên tục giảm đau ngoài màng cứng với dung dịch gồm: Bupivacain 0,1% + Fentanyl 4 mcg/ml bằng dụng cụ bơm tiêm điện với vận tốc 4-8 ml/giờ. Theo dõi dấu sinh tồn của BN trước, trong và sau khi thực hiện thủ thuật, xử lý những rối loạn khi cần. Tại phòng mổ: sau khi gây tê, theo dõi: mạch, HA, nhịp thở, tri giác, điểm đau mỗi 3 phút/ lần trong suốt quá trình mổ, cho đến khi kết thúc cuộc mổ. Ghi nhận và đánh giá các yếu tố cần nghiên cứu: mức tê, độ liệt Sau mổ: tiếp tục duy trì giảm đau qua catheter NMC bằng bơm điện liên tục trong 72 giờ, khi bệnh nhân về trại, thăm khám BN mỗi ngày/ lần cho đến khi ra viện để ghi nhận cảm tưởng của BN và các biến chứng muộn như bí tiểu, đau lưng, đau đầu Thu thập và xử lý số liệu Dữ liệu nghiên cứu: tuổi, giới, cân nặng, bệnh kèm theo, đặc điểm của phương pháp CSE, tình trạng huyết động trước trong và sau thực hiện phương pháp CSE. Thang điểm đau, mức độ phong bế vận động sau mổ, các tác dụng không mong muốn và mức độ hài lòng của Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 331 bệnh nhân... Tất cả các số liệu đều được ghi lại trong phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập vào máy vi tính. Quản lý và xử lý tất cả các số liệu theo chương trình SPSS 13.0. Tính trị số trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến liên tục. Các chỉ số được biểu hiện bằng số trung bình  độ lệch chuẩn. Tính tần suất và tỷ lệ phần trăm cho các biến định tính. Tính trị số P value và khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Phép kiểm T được sử dụng để kiểm định sự đồng nhất về giá trị trung bình cho các biến liên tục phân phối chuẩn 2 mẫu phụ thuộc hay độc lập. Phép kiểm 2 để kiểm định các biến số rời rạc, mục đích là để kiểm tra tính phù hợp, tính đồng nhất và tính độc lập cho các biến ở một hoặc nhiều mẫu. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 1/ 2010 đến 08/ 2011 tại Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương TPHCM, chúng tôi đã tiến hành theo dõi 47 trường hợp phẫu thuật thay khớp gối hoặc khớp háng. Kết quả thu thập và phân tích như sau: Đặc điểm chung Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân Đặc điểm chung Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Tuổi 67,4 ± 9,5 47 86 Chiều cao (cm) 152,6 ± 11,8 143 168 Cân nặng (kg) 52,2 ± 8,3 45 77 Thời gian mổ (phút) 96,7 ± 18,3 50 135 Bệnh kèm theo Bảng 2: Bệnh kèm theo của bệnh nhân Bệnh kèm theo Số trường hợp Tỷ lệ (%) Cao huyết áp 14 29,8 Thiếu máu cơ tim 5 10,6 Bệnh hô hấp 6 12,8 Tai biến mạch máu não 2 4,3 Tiểu đường 5 10,6 Bệnh khác 4 8,5 Thay đổ sinh hiệu bệnh nhân Bảng 3: Thay đổi sinh hiệu của bệnh nhân Thay đổi sinh hiệu Mạch Huyết áp max Huyết áp min Tần số thở Trước gây tê 81,6  8,4 110,2  9,4 73,1  10,2 21,3  2,2 Sau gây tê 90,2  10,1 105,7  5,7 64,4  8,5 20,8  2,1 Trong mổ 91,4  9,9 105,9  7,8 67,2  7,3 19,9  2,3 Sau mổ 89,7  10,8 110,4 8,5 65,1 8,3 20,4  2,4 P value > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 Đặc điểm về kỹ thuật – tai biến biến chứng Đặc điểm về kỹ thuật Bảng 4: Các thông số về đặc điểm kỹ thuật Đặc điểm về kỹ thuật Số trường hợp Tỷ lệ (%) Thời gian làm thủ thuật (phút) < 20 40 85,1 21 – 30 6 12,8 31 – 40 1 2,1 Đường chích Đường giữa 34 72,3 Đường bên 13 27,7 Khoảng cách từ da đến khoang NMC < 4cm 3 6,4 4 - 5cm 39 83,0 > 5cm 5 10,6 Tai biến - Biến chứng Bảng 5: Các tai biến, biến chứng Biến chứng Số trường hợp Tỷ lệ % Tụt huyết áp 9 19,1 Lạnh run 4 8,5 Buồn nôn - nôn 3 6,4 Đau đầu 5 10,6 Đau lưng 2 4,2 Rối loạn bàng quang 3 6,4 Đánh giá hiệu quả giảm đau Giảm đau trong cuộc mổ Bảng 6: Đánh giá giảm đau trong cuộc mổ Giảm đau trong mổ Số trường hợp Tỷ lệ % Vùng mất cảm giác đau 2 bên 47 100 Thang điểm đau (0 điểm) 47 100 Phong bế vận động 2 bên (độ 4) 47 100 Giảm đau sau mổ Vùng mất cảm giác đau Bảng 7: Vùng mất cảm giác đau Vùng mất cảm giác đau Số trường hợp Tỷ lệ % Bên trái 2 4,2 Bên phải 3 6,4 Hai bên 41 87,3 Không 1 2,1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 332 Thang điểm đau (VAS) Bảng 8: Thang điểm đau Thang điểm đau 0 – 1 >1 – 3 >3 – 5 >5 - 8 >8 - 10 Số trường hợp 35 8 3 1 0 Tỷ lệ % 74,5 17,0 6,4 2,1 0 P < 0,05  có sự khác biệt thống kê giữa các điểm đau Phong bế vận động Đánh giá theo thang điểm Bromage. Bảng 9: Mức phong bế vận động Phong bế vận động Độ 0 Độ 1 Độ 2 Số trường hợp 41 5 1 Tỷ lệ % 87,3 10,6 2,1 Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân Bảng 10: Mức độ hài lòng của bệnh nhân Mức độ hài lòng Tốt Khá Trung bình Số trường hợp 41 4 2 Tỷ lệ % 87,3 8,5 4,2 NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm chung (Bảng 1) Tuổi trung bình của bệnh nhân (BN): 67,4 tuổi  9,5 tuổi. Tuổi thấp nhất là 47 tuổi, tuổi cao nhất là 86 tuổi. Theo y văn, liều lượng thuốc tê có ảnh hưởng đến tuổi bệnh nhân nhưng thường là GTNMC toàn phần, nhất là ở những bệnh nhân trên 50 tuổi do thoái hóa cột sống, tổ chức xơ tăng sinh làm hẹp lỗ liên hợp, thay đổi tính thấm của thuốc tê qua lỗ liên hợp nên phải giảm liều thuốc tê ở người cao tuổi. Mặc khác, thuốc tê được hấp thu một phần qua tuần hoàn máu ngay sau khi tiêm vào và phần còn lại hấp thu chậm hơn. Thuốc tê khuếch tán xuyên qua màng não đến dịch não tủy và tủy sống. Ơ người trẻ, thuốc tê có thể thấm qua các lỗ cạnh đốt sống làm tăng tác dụng của thuốc tê(4). Chiều cao chiếm đa số là 150 – 160 cm, cao nhất 168 cm, thấp nhất 143 cm. Chiều cao trung bình: 152,6 cm  11,8 cm. Yếu tố chiều cao chỉ ảnh hưởng khiêm tốn đến mức lan rộng của thuốc tê và trong việc tính liều lượng thuốc tê trong GTNMC(8). Cân nặng BN phù hợp với thể tạng người Việt Nam, chiếm 90% cân nặng từ 50 đến 70kg. Cân nặng trung bình: 52,2 kg  8,3 kg, cao nhất 77kg, thấp nhất 45kg. Chúng tôi nhận thấy ở các BN béo phì, không chỉ là những nguy cơ chọc dò khó khăn mà còn những vấn đề hô hấp, tuần hoàn và bệnh lý đi kèm. Thời gian mổ trung bình: 96,7 phút  18, phút. Thời gian mổ nhanh nhất là 50 phút và lâu nhất 135phút. Thời gian này ngắn hơn so với các tác giả khác thì thời gian mổ là 125,16 phút ± 14,5 phút(6). Bệnh kèm theo (Bảng 2) Theo kết quả nghiên cứu của cho thấy đa số bệnh nhân đều có bệnh lý nội khoa kèm theo như cao huyết áp 14 TH chiếm 29,8%, thiếu máu cơ tim 5 TH chiếm 10,6%, bệnh hô hấp 6 TH chiếm 12,8%, tiểu đường 5 TH chiếm 10,6%, tai biến mạch máu não 2 TH chiếm 4,3%. Tất cả các trường hợp có bệnh kèm theo, chúng tôi cho hội chẩn và điều trị theo chuyên khoa ổn định trước khi xếp lịch mổ chương trình. Bệnh nhân cao huyết áp cần kiểm tra chức năng tâm thất trái, tình trạng mạch vành, chức năng thận và soi đáy mắt trước mổ. Gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng trên bệnh nhân cao huyết áp, dễ có nguy cơ tụt huyết áp do khả năng vận mạch bị giảm sút(1). Tuy nhiên, gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng trong mổ cũng như gây tê ngoài màng cứng để giảm đau hậu phẫu lại cho thấy giảm tỷ lệ tử vong, giảm nguy cơ tai biến tim mạch sau mổ. Các thuốc điều trị tăng huyết áp đường uống vẫn tiếp tục được dùng cho đến ngày mổ vì sợ tai biến cơn tăng huyết áp khi ngưng thuốc; trừ nhóm ức chế men chuyển vì tác dụng kéo dài, cần ngưng trước mổ 24 giờ(3,11). Thiếu máu cơ tim là một tổn thương phổ biến và nguy hiểm trong phẫu thuật, liên quan với bệnh nhân cao huyết áp.Tai biến sau mổ về suy tim, suy thận và bệnh lý mạch máu não cũng liên quan với cao huyết áp. Chứng cớ thấp về mối liên quan giữa huyết áp trước mổ < 180/110 mmHg với nguy cơ tim mạch trong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 333 giai đoạn chu phẫu. Do đó việc kiểm soát huyết áp dưới mức < 180 mmHg trước mổ là điều kiện cần thiết cho cuộc mổ chương trình(5). Bệnh nhân cần được truyền tối thiểu là 10 mL/kg cân nặng dịch tinh thể (khoảng 500 mL cho người bình thường), để làm đầy lòng mạch trước khi thực hiện thủ thuật gây tê. Nếu có tai biến tụt huyết áp sau khi gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng, dùng phenylephrine với liều 10 - 80 g/phút là tốt nhất vì không làm mạch nhanh. Thường thì chúng tôi sử dụng ephedrine, người ta khuyên có thể dùng với liều 5 - 50 mg(9,11). Thay đổ sinh hiệu bệnh nhân (Bảng 3) Thay đổi sinh hiệu bệnh nhân, chúng tôi cho thấy các chỉ số về mạch, huyết áp, nhịp thở ở các thời điểm trước gây tê, sau gây tê, trong lúc mổ, sau mổ đều khác nhau không có ý nghĩa về mặt thống kê với p> 0,05. Đây cũng là ưu điểm của phương pháp gây tê tủy sống kết hợp GTNMC vì giảm được liều thuốc tê vào khoang tuỷ sống và cả khoang ngoài màng cứng (2).Tuy nhiên trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi hầu hết không có dấu hiệu mất máu đến mức cần phải truyền máu. Hơn nữa, chúng tôi sử dụng liều thuốc Bupivacaine và Fentanyl thấp nên hầu như không ảnh hưởng đến huyết động học, lượng dung dịch tinh thể chúng tôi truyền cho bệnh nhân chỉ là đủ nhu cầu sinh lý bình thường. Chúng tôi nhận thấy với độ tuổi trong nghiên cứu trung bình là 67,4 tuổi  9,5 tuổi, áp dụng phương pháp vô cảm gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng rất hiệu quả giảm đau và ổn định về các chức năng sống của bệnh nhân trong và sau mổ, không những thế sau mổ chúng ta tiếp tục kiểm soát đau của bệnh nhân mà không cần dùng thêm các loại thuốc giảm đau toàn thân khác, bệnh nhân thấy thoải mái sau mổ. Đặc điểm về kỹ thuật – tai biến biến chứng Chọc dò cột sống thắt lưng được thực hiện với bệnh nhân ở tư thế ngồi hoặc nằm nghiêng. Bất kỳ chọn lựa tư thế nào, bệnh nhân đều được yêu cầu cúi cong cột sống tối đa có thể được. Đường nối đỉnh hai mào chậu, thường đi qua thân đốt sống L4, và đó là một mốc phổ biến. Trên đường thẳng này thường là khoảng gian đốt L3-4, dưới thường là khoảng gian đốt L4-5. Việc chọn lựa khoảng gian đốt là quan trọng, bởi vì kim tê không được đưa vào mức mà có thể chạm vào tủy sống. Ở người lớn, tủy sống thường kết thúc ở mức ngang L1. Tuy nhiên, nó cũng có thể kết thúc xa hơn ở ngang mức L2, thậm chí ở L3. Vì vậy, kim tê tủy sống đưa vào với mục đích chẩn đoán hoặc gây tê không được chọc cao hơn mức gian đốt L3-4, ngoại trừ những trường hợp cá biệt. Chọc dò cột sống thắt lưng thường thực hiện qua đường giữa. Trong nghiên cứu, chúng tôi thực hiện 34 TH chiếm 72,3% theo đường giữa (bảng 4). Sau khi gây tê tại chỗ, kim được đưa vào qua các lớp cấu trúc: da, tổ chức dưới da, dây chằng trên gai, dây chằng gian gai, dây chằng vàng và màng cứng. Chọc dò cột sống thắt lưng cũng có thể theo đường bên khi gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng, chúng tôi có 13 TH chiếm 27,7% theo đường bên (bảng 4). Phương thức này hữu dụng đáng kể trong trường hợp bệnh nhân có khó khăn khi cúi gập cột sống hoặc trong trường hợp dây chằng trên gai và dây chằng liên gai bị vôi hóa làm kim chọc dò đi qua khó khăn. Người ta khuyên nên đi vào theo đường giữa vì ở đấy khoảng cách
Tài liệu liên quan