Đặt vấn đề: Một số bệnh lý khiếm khuyết tế bào vùng rìa giác mạc bẩm sinh hoặc mắc phải bởi các nguyên
nhân như hội chứng Steven Johnson, phẫu thuật giác mạc nhiều lần, bỏng nhiệt hoặc hóa chất tạo sẹo giác mạc,
nhiễm trùng, đeo contact lens dẫn đến phá hủy lớp biểu mô giác mạc gây giảm thị lực của bệnh nhân. Để điều
trị hiệu quả, bệnh nhân cần phải tạo được lớp biểu mô giác mạc thay thế.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu loạt ca. Phương pháp nghiên
cứu: Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm dựa theo chỉ định để tiến hành ghép tế bào gốc. Nhóm 1: ghép “tấm biểu
mô” được tạo thành từ niêm mạc má. Nhóm: ghép “tấm biểu mô” được tạo thành từ tế bào gốc vùng rìa giác
mạc. Tế bào rìa giác mạc và niêm mạc má được thu nhận theo đúng tiêu chuẩn chọn mẫu và tạo tấm biểu mô theo
qui trình. Đánh giá: Tế bào nuôi cấy được theo dõi dưới kính hiển vi đảo ngược pha, nhuộm mô học HE và
nhuộm hóa mô miễn dịch với marker p63. Kết quả ghép tấm biểu mô trên bệnh nhân được theo dõi và dựa trên
khám bề mặt giác mạc, đánh giá thị lực và kết quả tạo tân mạch giác mạc.
Kết quả và bàn luận: Sau khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đạt được một số kết quả như sau: - Nhóm 1:
bề mặt nhãn cầu ổn định 6/7 mắt. Thị lực cải thiện nhưng không quá 1 hàng. - Nhóm 2: bề mặt nhãn cầu ổn định
22/23 ca. Thị lực cải thiện lớn hơn 2 hàng 20/23 ca. Kết quả này cho thấy tính hiệu quả của phương pháp điều trị
như các tác giả khác trên thế giới.
Kết luận: Chúng tôi đã sử dụng thành công kỹ thuật nuôi cấy tế bào gốc an toàn và hữu dụng, đặc biệt điều
trị bệnh lý bề mặt nhãn cầu ở chuyên khoa mắt.
                
              
                                            
                                
            
 
             
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nuôi cấy tế bào gốc vùng rìa giác mạc và niêm mạc má tự thân điều trị bệnh lý biểu mô giác mạc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 24 
NGHIÊN CỨU NUÔI CẤY TẾ BÀO GỐC VÙNG RÌA GIÁC MẠC 
VÀ NIÊM MẠC MÁ TỰ THÂN ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ BIỂU MÔ GIÁC MẠC 
Trần Công Toại*, Trần Thị Thanh Thủy*, Phan Kim Ngọc**, Diệp Hữu Thắng*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Một số bệnh lý khiếm khuyết tế bào vùng rìa giác mạc bẩm sinh hoặc mắc phải bởi các nguyên 
nhân như hội chứng Steven Johnson, phẫu thuật giác mạc nhiều lần, bỏng nhiệt hoặc hóa chất tạo sẹo giác mạc, 
nhiễm trùng, đeo contact lensdẫn đến phá hủy lớp biểu mô giác mạc gây giảm thị lực của bệnh nhân. Để điều 
trị hiệu quả, bệnh nhân cần phải tạo được lớp biểu mô giác mạc thay thế. 
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu loạt ca. Phương pháp nghiên 
cứu: Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm dựa theo chỉ định để tiến hành ghép tế bào gốc. Nhóm 1: ghép “tấm biểu 
mô” được tạo thành từ niêm mạc má. Nhóm: ghép “tấm biểu mô” được tạo thành từ tế bào gốc vùng rìa giác 
mạc. Tế bào rìa giác mạc và niêm mạc má được thu nhận theo đúng tiêu chuẩn chọn mẫu và tạo tấm biểu mô theo 
qui trình. Đánh giá: Tế bào nuôi cấy được theo dõi dưới kính hiển vi đảo ngược pha, nhuộm mô học HE và 
nhuộm hóa mô miễn dịch với marker p63. Kết quả ghép tấm biểu mô trên bệnh nhân được theo dõi và dựa trên 
khám bề mặt giác mạc, đánh giá thị lực và kết quả tạo tân mạch giác mạc. 
Kết quả và bàn luận: Sau khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đạt được một số kết quả như sau: - Nhóm 1: 
bề mặt nhãn cầu ổn định 6/7 mắt. Thị lực cải thiện nhưng không quá 1 hàng. - Nhóm 2: bề mặt nhãn cầu ổn định 
22/23 ca. Thị lực cải thiện lớn hơn 2 hàng 20/23 ca. Kết quả này cho thấy tính hiệu quả của phương pháp điều trị 
như các tác giả khác trên thế giới. 
Kết luận: Chúng tôi đã sử dụng thành công kỹ thuật nuôi cấy tế bào gốc an toàn và hữu dụng, đặc biệt điều 
trị bệnh lý bề mặt nhãn cầu ở chuyên khoa mắt. 
Từ khóa: ghép tế bào gốc, niêm mạc má, rìa giác mạc. 
ABSTRACT 
CULTURE OF AUTOGRAFT LIMBAL CELLS AND CHEEK EPITHELIAL CELLS TO TREAT 
CORNEAL EPITHELIUM DISEASE 
 Tran Cong Toai, Tran Thi Thu Thuy, Phan Kim Ngoc, Diep Huu Thang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 24 - 30 
Introduction: Some pathologies of corneal cell edge region may be of congenital origin such as Steven 
Johnson syndrome, or can be caused by mechanical or environment condition such as corneal multiple surgeries, 
chemicals that eventually generate infection due to different auto-immune reaction. All these condition may 
eventually lead to the destruction of cornea epithelial layer causing either a decrease or a total loss of vision. For an 
effective treatment, patients need to be regenerated the corneal epithelial layer. 
Materials and methods: Research design: Case series study 
Methods: Patients were divided into 2 groups to conduct stem cell transplantation: Group 1: graft 
“epithelial sheets” are made up of oral mucosa. Group 2: graft “epithelial sheets” are formed from stem cell of 
*Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, **Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên- ĐH Quốc Gia Tp.HCM 
***Bệnh viện Mắt Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. BS Trần Công Toại ĐT: 0913.914.672 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 25 
corneal area (limbal stem cell). Corneal cell edge and oral mucosa were included as standard sample and generate 
epithelial sheets in the protocol. 
Evaluation: Cells were monitored by inverted phase microscopy, HE staining and immune-histochemical 
staining by p63 marker. Results of the epithelial sheet transplant are monitored and evaluated by the corneal 
surface examination, vision and corneal new vessels. 
Results and discussion: After conducting research, we obtained the results as follows: - Group 1: Stable 
surface eyeball 6/7 eyes. Vision improved, but not more than 1 row. - Group 2: Stable surface eyeball 22/23 eyes. 
Vision improved, but not more than 2 row. This result shows the effectiveness of treatment in line with other 
international studies. 
Conclusion: We used a successfully technique which confirmed that cultured stem cells are safe and useful 
in the treatment of few eye pathological condition. 
Key words: stem cell transplantation, oral mucosa, of corneal area (limbal stem cell). 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nghiên cứu tế bào gốc là một lĩnh vực mang 
tính thời sự hiện nay trên thế giới vì những tiềm 
năng ứng dụng to lớn của chúng trong lĩnh vực 
Y Sinh học(18,19,21,32). Tuy nhiên, tùy theo định 
hướng nghiên cứu của mỗi nhóm nghiên cứu, 
mỗi vùng miền và mỗi quốc gia mà khả năng 
nghiên cứu được tiến hành trên những quy mô 
nghiên cứu khác nhau. Ở nước ta nghiên cứu tế 
bào gốc đang từng bước được quan tâm bởi các 
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các bác sĩ lâm 
sàng cũng như các nhà đầu tư chiến lược khoa 
học của nhà nước và đang được đầu tư vào lĩnh 
vực mới mẽ nhưng đầy triển vọng này(8). So với 
các nước trong khu vực, Việt Nam chúng ta bắt 
đầu xây dựng chiến lược, đào tạo đội ngũ 
chuyên gia, cơ sở hạ tầng và mức độ đầu tư 
cũng như những sản phẩm công nghệ tế bào 
gốc như quy trình công nghệ, công trình công 
bố khoa học chuyên ngành tuy nhiên vẫn chỉ 
ở điểm xuất phát. 
Nhờ vào sự giúp đỡ, chuyển giao kỹ thuật 
từ phòng thí nghiệm tiên tiến tại Nhật(21,22,23) 
chúng tôi có thể tiếp cận, triển khai các qui trình 
mới mẻ nhưng có giá trị vô cùng to lớn, thực 
hiện nghiên cứu ứng dụng tế bào vùng rìa giác 
mạc và niêm mạc má người tạo tấm biểu mô 
điều trị các bệnh lý tổn thương biểu mô giác 
mạc tự thân qua nuôi cấy(23,25,28). 
Thực hiện đề tài chúng tôi cần đạt các mục 
tiêu sau: 
Tạo tấm biểu mô giác mạc từ tế bào gốc 
vùng rìa và tế bào niêm mạc má. 
Đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân tổn 
thương biểu mô giác mạc bằng ghép tấm biểu 
mô tự thân qua nuôi cấy tế bào gốc. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kết nghiên cứu: nghiên cứu loạt ca. 
Các phương pháp nghiên cứu: 
Tạo màng collagen từ màng ối người(2,4,10,11,16,17,20,30). 
- Sản phụ phải được xét nghiệm âm tính với 
HIV, HBV, HCV, VDRL Mẫu được lấy ngay 
sau sanh, trữ trong lọ vô trùng có chứa dung 
dịch PBS (Phosphat Buffer Salin), kháng sinh, 
chuyển nhanh về phòng thí nghiệm. 
- Rửa màng ối trong dung dịch PBS cho đến 
khi sạch máu, sạch các mô sống không cần thiết. 
- Cắt màng ối thành từng mảnh khoảng 
50cm2 và xử lý với dung dịch trypsin 0,25% - 
EDTA 0,02% trong 30 phút ở 37oC. 
- Cạo bỏ lớp tế bào biểu mô màng ối, tránh 
làm vỡ màng đáy. 
- Đánh giá hiệu quả bóc tách lớp tế bào biểu 
mô màng ối bằng phương pháp nhuộm 
hematoxylin và eosin (nhuộm H&E). 
- Màng collagen được bảo quản 12 tháng sau 
khi để khô tự nhiên và khử trùng bằng tia 
gamma. 
 - Trải mẫu màng ối trên đĩa insert, để khô tự 
nhiên 2 giờ trong buồng cấy, ở nhiệt độ phòng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 26 
 - Khảo sát màng ối sau xử lý bằng cách 
quan sát mô học và phân tích độc chất. 
Phương pháp trải màng collagen trên đĩa 
nuôi(1,14,26,31) 
Cắt màng collagen thành những mảnh có 
diện tích tương ứng bề mặt đĩa nuôi. 
Trải căng và áp sát màng collagen trên bề 
mặt đĩa nuôi (đĩa lồng - insert) sao cho mặt biểu 
mô hướng lên trên. 
Để khô tự nhiên trong tủ cấy. 
Đóng gói và khử trùng bằng chiếu xạ tia  từ 
nguồn Co60, suất liều 25 kGy(3,8,15). 
Các phương pháp nuôi cấy tế bào 3T3, tế 
bào vùng rìa giác mạc và tế bào niêm mạc má 
theo đúng qui trình ĐH Tokyo Dental College 
Ichikawa(5,7,23). 
Tạo tấm biểu mô giác mạc từ TBG vùng rìa 
giác mạc. 
Thu nhận mẫu tế bào vùng rìa giác mạc tại 
phòng mổ (Bệnh viện Mắt TP.HCM), cho vào 
dung dịch bảo quản Optisol GS, đặt trong hộp 
bảo quản lạnh 2-80C, chuyển nhanh về phòng 
thí nghiệm. 
Rửa 2 lần bằng dung dịch PBS. 
Cắt lọc mẫu mô. 
Nuôi trên đĩa insert đã trảii màng collagen 
từ màng ối và có feeder tế bào 3T3 trong môi 
trường SHEM (DEMEM/F12, 100µ/ml 
Streptomycine, 100U/ml Penicillin, 10ng/ml 
EGF, 5 µ/ml Insulin, 0,1 µ/ml Cholera toxin, 5% 
FBS). 
Mẫu mô có bờ biểu mô áp trên màng, nhỏ 2 
giọt môi trường SHEM, ngày tiếp theo thêm 
0,5ml môi trường, 2 ngày tiếp theo thay môi 
trường 1ml/đĩa insert và 1,5ml/đĩa 3T3. 
Từ 14-21 ngày tạo được tấm biểu mô có 
nhiều lớp tế bào có thể ghép lại cho bệnh nhân. 
Một phần mẫu giữ lại sau ghép đánh giá mô 
học và thực hiện hóa miễn dịch mô. 
Tạo tấm biểu mô giác mạc từ TBG niêm mạc 
má. 
Niêm mạc má được lấy từ BV. Mắt trên 
người tình nguyện d=0,8 cm đựng trong 
dung dịch Optisol GS giữ 40C mang về phòng 
thí nghiệm. 
Cắt lọc mẫu bớt phần mô dưới niêm mạc. 
Tạo ra thành các phần 2mm. 
Ủ trong dung dịch Dipase ở 40C trong 5 giờ 
sao cho Dipase có nồng độ 0,8UI/ml. 
Tách tế bào,đếm tế bào sống cấy trên đĩa 
insert (0,1 – 1 x 105 cells/ml). 
Thay môi trường SHEM mỗi 2 ngày, 1ml/đĩa 
insert và 1,5ml/đĩa tế bào 3T3. Mẫu được tiếp 
xúc không khí (airlifting) 3 ngày trước khi ghép. 
Từ 14-21 ngày tạo được tấm biểu mô có 
nhiều lớp tế bào có thể chuyển lại ghép cho 
bệnh nhân. 
Một phần mẫu giữ lại sau ghép đánh giá mô 
học và hóa miễn dịch mô. 
Điều trị bệnh lý biểu mô giác mạc và kết quả 
ghép điều trị 30 bệnh nhân tình nguyện(24,27,29,33). 
Bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Mắt TP. 
HCM có chỉ định ghép TBG sẽ được chuyển đến 
khoa Giác mạc. 
Bác sỹ chuyên khoa Giác mạc sẽ khám, hội 
chẩn để ra quyết định điều trị. Bệnh nhân 
được bác sĩ chuyên khoa giải thích đầy đủ các 
nhu cầu và phương pháp điều trị bằng giải 
pháp nuôi cây tế bào sau nuôi cấy, cam kết 
đồng ý theo mẫu. 
Nếu bệnh nhân bị tổn thương một mắt và 
mắt còn lại tốt sẽ được điều trị ghép TBG vùng 
rìa giác mạc. 
Nếu bệnh nhân bị tổn thương cả hai mắt và 
niêm mạc má còn tốt sẽ được điều trị ghép tấm 
biểu mô được nuôi cấy từ tế bào niêm mạc má. 
Bệnh nhân sẽ được làm các xét nghiệm tiền 
phẫu, khám nội khoa tổng quát, khám mắt (đặc 
biệt đánh giá tình trạng viêm, tân mạch và phim 
nước mắt). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 27 
Lấy mẫu tế bào chuyển về phòng thí 
nghiệm xử lý và nuôi cấy tạo tấm biểu mô, 
hẹn trở lại ghép. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi: 
- Đánh giá bước đầu việc ứng dụng ghép 
tấm biểu mô điều trị bệnh lý bề mặt nhãn cầu. 
- Đánh giá chất lượng tấm biểu mô được tạo 
thành từ nuôi cấy tế bào gốc vùng rìa giác mạc 
hoặc từ tế bào niêm mạc má trên màng ối. 
Phân loại 
Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm dựa theo 
chỉ định: 
- Nhóm 1: ghép “tấm biểu mô” được tạo 
thành từ tế bào niêm mạc má. 
- Nhóm 2: ghép “tấm biểu mô” được tạo 
thành từ tế bào gốc vùng rìa giác mạc. 
Quy trình chọn lọc bệnh nhân 
Tế bào gốc vùng rìa giác mạc: lấy từ kết mạc 
rìa cực trên 4x2 mm. 
Tế bào niêm mạc má: lấy từ niêm mạc má, 
đường kính 8mm. 
Mẫu được đặt trong môi trường chuyên chở 
và gửi đến bộ Phòng thí nghiệm Vật liệu Sinh 
Hình 1: Xử lý mẫu tế 
bào niêm mạc má 
Hình2: Đĩa insert dùng 
để nuôi cấy tế bào 
Hình 3.9: Tế bào niêm mạc 
má sau nuôi cấy 6 ngày 
Hình 3.10: Tế bào niêm mạc 
má sau nuôi cấy 10 ngày 
Hình 3.15: Màng ối trước cấy 
tế bào, nhuộm HE x 400 
Hình 3.16: Màng ối sau nuôi 
cấy, nhuộm HE x400 
Hình 3.17: Màng ối sau 
nuôi cấy, nhuộm P63 x 400 
Hình 3.18: Tấm tế bào từ 
Y.Hori (Osaka, Nhật) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 28 
học, Bộ môn Mô - Phôi, Trường Đại học Y khoa 
Phạm Ngọc Thạch thực hiện qui trình nuôi cấy. 
- Bệnh nhân sẽ được phẫu thuật ghép tấm 
biểu mô. 
- Bệnh nhân được điều trị ngoại trú, không 
phải nằm viện. 
 Đánh giá: Đánh giá kết quả dựa trên khám 
bề mặt giác mạc, thị lực và tân mạch giác mạc 
(tân mạch được chia làm 4 độ: độ 1 là tân mạch 
vùng rìa, độ 2 là tân mạch vào giác mạc 3mm, 
độ 3 là tân mạch vào toàn bộ giác mạc, độ 4 vào 
toàn bộ giác mạc và thành bó tân mạch). 
Nhóm 1: Tấm biểu mô được tạo thành từ tế 
bào gốc vùng rìa giác mạc của 23 bệnh nhân (16 
bệnh nhân mộng thịt tái phát, 4 bệnh nhân bỏng 
kiềm,1 bệnh nhân Stevens Johnson,1 bệnh nhân 
suy yếu tế bào gốc chưa rõ nguyên nhân và 1 
bệnh nhân bị ong chích). Thời gian theo dõi 
trung bình 6,34 tháng. 
Nhóm 2: Tấm biểu mô từ tế bào niêm mạc 
má được nuôi cấy trên màng ối của 6 bệnh nhân 
(6 mắt) với hội chứng Stevens Johnson và một 
bệnh nhân bỏng hóa chất. Tổng cộng 7 mắt, thời 
gian theo dõi trung bình 18,4 tháng. 
KẾT QUẢ 
Nhóm 1: 
- Ghép tế bào gốc vùng rìa. 
- Thời gian theo dõi trung bình 6,34 tháng. 
- Bề mặt nhãn cầu ổn định 22/23 ca. Một ca bi 
nhiễm trùng sau mổ 07 ngày trên bệnh nhân 
nhiễm HIV (nhiễm trùng sau đó được điều trị ổn). 
- Thị lực cải thiện lớn hơn 2 hàng 20/23 ca 
(87%). 
- Tân mạch chưa phát triển 18/23 ca. 
- Độ 1: 3/23 ca, độ 2: 1/23 ca và độ: 4 1/23 
Nhóm 2: 
- Ghép tế bào niêm mạc má. 
- Thời gian theo dõi trung bình 18,4 tháng. 
- Bề mặt nhãn cầu ổn định 6/7 mắt. 
- Tân mạch độ 1: 5/7 mắt, độ 2: 1/7 mắt, độ 3: 
1/7 mắt. 
- Thị lực có cải thiện nhưng không quá 1 hàng. 
 BÀN LUẬN 
Ghép tấm biểu mô được nuôi cấy từ tế bào 
gốc đã giúp giải quyết được những bệnh lý bề 
mặt nhãn cầu do suy yếu tế bào gốc vùng rìa 
giác mạc(6,9,12,13,34). 
Phối hợp với ghép giác mạc sẽ đem lại thị 
lực cho bệnh nhân tốt hơn và góp phần mang lại 
thành công của phẫu thuật ghép giác mạc. 
Cần điều trị tình trạng viêm bề mặt, tình 
trạng khô mắt thật tốt sẽ giúp mang lại kết 
quả tốt. 
Bệnh nhân cần được làm xét nghiệm tiền 
phẫu kiểm tra các bệnh liên quan miễn dịch ví 
dụ HIV, tiểu đường, viêm khớp,... nhằm tiên 
lượng và hướng điều trị. 
Hình 3.24: Mắt tổn thương 
sẹo giác mạc trước ghép 
Hình 3.25: Điều trị tổn thương 
sẹo giác mạc trước ghép 
Hình 3.26:Tế bào rìa giác mạc 
sau nuôi cấy, trước ghép 
Hình 3.27: Điều trị tổn thương 
sẹo giác mạc trước ghép 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 29 
Đối với bệnh nhân suy giảm miễn dịch cần 
rất thận trọng vì rất dễ bị nhiễm trùng do phải 
sử dụng corticoid sau mổ. 
Phẫu thuật không phức tạp nhưng đòi hỏi 
sự tỉ mỉ. Chọn bệnh nhân đúng chỉ định và theo 
dõi chặt chẽ. 
Với việc ứng dụng keo sinh học collagen sẽ 
giúp cho phẫu thuật đơn giản và hiệu quả hơn. 
Đa số trường hợp có tổn thương giác mạc 
nặng thì ghép tế bào gốc là bước đệm của việc 
ghép giác mạc sau này. 
KẾT LUẬN 
Thành công của kỹ thuật nuôi cấy tế bào 
gốc. 
Phẫu thuật an toàn và hữu dụng, đặc biệt ở 
những trường hợp mộng thịt tái phát, những 
trường hợp hội chứng Stevens Johnson có đục 
giác mạc cần phẫu thuật ghép giác mạc sau đó 
nhằm đem lại thị lực cho bệnh nhân. 
Mở ra một hướng mới trong việc ứng dụng 
tế bào gốc điều trị bệnh lý bề mặt nhãn cầu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ariane R, Yann B. (2006): Essentials of stem cell biology, Elsevier, 
Inc.: 440 – 444. 
2. Azuara BA, Pillai CT, Dua HS. (1999) : Amniotic membrane 
transplantation for ocular surface reconstruction, Br J Ophthalmol, 83: 
399-402. 
3. Bacakova L, Filova E, Rypacek F, Svorcik V, Stary V. (2004): Cell 
adhesion on artificial materials for tissue engineering. Physiol Res, 53: 
35-45. 
4. Chen HJ, Pires RT, Tseng SC. (2000): Amniotic membrane 
transplantation for severe neurotrophic corneal ulcers, Br J Ophthalmol, 
84: 826-833. 
5. Der-Yuan W, Yi-Jen H, Vivian CY, Jan-Kan C. (2003): Propagation 
and phenotypic preservation of rabbit limbal epithelial cells on amniotic 
membrane, Investigative Ophthalmology and Visual Science, 44: 4698-
4704. 
6. Higa K, Shimazaki J. (2008): Recent advances in cultivated 
epithelial transplantation, Cornea, 27(1):S41-47. 
7. Higa K, Shimmura S, Kato N et al. (2007): Proliferation and 
differentiation of transplantable rabit epithelial sheets 
engineered with or without an amniotic membrane carrier, 
Invest Ophtalmol Vis Sci, 48: 597–604. 
8. Higa K, Shimmura S, Shimazaki J, Tsubota K. (2005): Hyaluronic 
acid-CD44 interaction mediates the adhesion of lymphocytes by 
amniotic membrane stroma, Cornea, 24: 206-212. 
9. Higa K, Shimmura S, Shimazaki J, Tsubota K. (2006): Ocular surface 
epithelial cells up-regulate HLA-G when expanded in vitro on amniotic 
membrane substrates, Cornea, 25: 715-721. 
10. Hopkinson A, Shanmuganathan VA, Gray T, Yeung AM, Lowe 
J, James DK, Dua HS. (2008): Optimization of amniotic membrane 
(AM) denuding for tissue engineering, Tissue engineering, 14: 371-383. 
11. Hori J, Wang M, Kamiya K, Takahashi H, Sakuragawa N. (2006): 
Immunological characteristics of amniotic epithelium, Cornea, 25:53-
58. 
12. Kevin YH Chee, Anthony Kicic, Steven J Wiffen. (2006): Limbal stem 
cells: the search for a marker, Clinical and Experimental 
Ophthalmology, 34: 64–73. 
13. Koizumi NJ, Inatomi TJ, Quantock AJ. (2000): Amniotic membrane as 
a substrate for cultivating limbal epithelial cells for autologous 
transplantation in rabbits, Cornea, 19: 65-71 
14. Kruse FE, Joussen AM, Rohrschneider K, You L, Sinn B, Baumann J, 
Volcker HE. (2000): Cryopreserved human amniotic membrane for 
ocular surface reconstruction, Graefes Arch Clin Exp Ophthalmol, 238: 
68-75. 
15. Kubo M, Sonoda Y, Muramatsu R, Usui M. (2001): Immunogenicity 
of human amniotic membrane in experimental xenotransplantation, 
Invest Ophthalmol Vis Sci, 42:1539-1546. 
16. Manabe Y, Himeno N, Fukumoto M. (1991): Tensile strength and 
collagen content of amniotic membrane do not change after the second 
trimester or during delivery, Obstet Gynecol, 78: 24-27. 
17. Meller D, Tseng SCG. (1999): Stratified Conjunctival Epithelial Cell 
Differentiation on Amniotic Membrane, Investigative Ophthalmology & 
Visual Science, 40: 878-886. 
18. Miki T, Lehmann T, Cai H, Stolz DB, Strom SC. (2005): Stem cell 
characteristics of amniotic epithelial cells, Stem Cells, 23: 1549-1559. 
19. Miyamoto K, Hayashi K, Suzuki T, Ichihara S, Yamada T, Kano Y, 
Yamabe T, Ito Y. (2004): Human placenta feeder layers support 
undifferentiated growth of primate embryonic stem cells, Stem Cells, 22: 
433-440. 
20. Rita S, Sumita P, Chacharkar MP. (2007): Effect of high doses of 
gamma radiation on the functional characteristics of amniotic 
membrane, Rad Phys Chem, 76:1026 – 1030. 
21. Satake Y, Dogru M, Yamane GY et all. (2008): Barrier function 
and cytologic features of the ocular surface epithelium after 
autologous cultivated oral mucosal epithelial transplantation, 
Arch Ophthalmol, 126: 23-8. 
22. Shimazaki J, Aiba M, Goto E et all. (2002): Transplantation of 
human limbal epithelium cultivated on amniotic membrane for 
the treatment of severe ocular surface disorders, 
Ophthalmology, 109:1285-90. 
23. Shimazaki J, Higa K, Kato N et all. (2009): Barrier function of 
cultivated limbal and oral mucosal epithelial cell sheets, Invest 
Ophthalmol Vis Sci, 50:5672-80. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 30 
24. Shimazaki J, Higa K, Morito F et all. (2007):Factors influencing 
outcomes in cultivated limbal epithelial transplantation for 
chronic cicatricial ocular surface disorders, Am J Ophthalmol, 
143: 945-53. 
25. Shimazaki J, Maruyama F, Shimmura S et all. (2001): 
Immunologic rejection of the central graft after limbal allograft 
transplantation combined with penetrating keratoplasty, Cornea, 
20:149-52. 
26. Shimazaki J, Shimmura S, and Tsubota K. (2002): Limbal stem 
cell transplantation for the treatment of subepithelial amyloidosis 
of cornea (gelatinous drop-like dystrophy), Cornea, 21:177-80. 
27. Shimazaki J, Shimmura S, Tsubota K. (2004): Donor source 
affects the outcome of ocular surface reconstruntion in