Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của sử dụng GnRH đồng vận thay hCG cho những bệnh nhân có nguy cơ cao HCQKBT để khởi động trưởng thành noãn ở những chu kỳ sử dụng phác đồ GnRH đối vận Phương pháp: Đây là nghiên cứu báo cáo loạt ca. Các bệnh nhân được KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận. Vào ngày hCG, những bệnh nhân có > 20 nang >/=15mm và nồng độ E2 > 10000pg/mL được dùng 0,2mg triptorelin thay cho hCG để kích thích trưởng thành noãn. Chọc hút noãn tiến hành 36 tiếng sau triptorelin. Chuyển phôi tiến hành 48 tiếng sau chọc hút noãn. Hỗ trợ giai đoạn hoàng thể với progesterone ngả âm đạo và tiêm bắp, estradiol uống từ ngày chọc hút noãn. Kết quả: Có 33 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu. Số trứng chọc hút được là 20,27 ± 6,56. Tất cả bệnh nhân đều được chuyển phôi tươi. Tỉ lệ làm tổ là 18,61%. Tỉ lệ thai lâm sàng và sẩy thai lần lượt là 45,5% (15/33) và 6,06% (2/33). Không có bệnh nhân nào có HCQKBT. Kết luận: Sử dụng GnRH đồng vận để kích thích trưởng thành noãn trong phác đồ GnRH đối vận an toàn và hiệu quả trong dự phòng HCQKBT mà không ảnh hưởng đến kết quả TTTON
10 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng GnRH đồng vận thay thế hCG trong khởi động trưởng thành noãn ở các chu kỳ kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH đối vận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 176
SỬ DỤNG GnRH ĐỒNG VẬN THAY THẾ hCG TRONG KHỞI ĐỘNG
TRƯỞNG THÀNH NOÃN Ở CÁC CHU KỲ KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG
BẰNG PHÁC ĐỒ GnRH ĐỐI VẬN
Giang Huỳnh Như *, Vương Thị Ngọc Lan **
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của sử dụng GnRH đồng vận thay hCG cho những bệnh nhân có nguy cơ cao
HCQKBT để khởi động trưởng thành noãn ở những chu kỳ sử dụng phác đồ GnRH đối vận
Phương pháp: Đây là nghiên cứu báo cáo loạt ca. Các bệnh nhân được KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận.
Vào ngày hCG, những bệnh nhân có > 20 nang >/=15mm và nồng độ E2 > 10000pg/mL được dùng 0,2mg
triptorelin thay cho hCG để kích thích trưởng thành noãn. Chọc hút noãn tiến hành 36 tiếng sau triptorelin.
Chuyển phôi tiến hành 48 tiếng sau chọc hút noãn. Hỗ trợ giai đoạn hoàng thể với progesterone ngả âm đạo và
tiêm bắp, estradiol uống từ ngày chọc hút noãn.
Kết quả: Có 33 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu. Số trứng chọc hút được là 20,27 ± 6,56. Tất cả bệnh
nhân đều được chuyển phôi tươi. Tỉ lệ làm tổ là 18,61%. Tỉ lệ thai lâm sàng và sẩy thai lần lượt là 45,5% (15/33)
và 6,06% (2/33). Không có bệnh nhân nào có HCQKBT.
Kết luận: Sử dụng GnRH đồng vận để kích thích trưởng thành noãn trong phác đồ GnRH đối vận an toàn
và hiệu quả trong dự phòng HCQKBT mà không ảnh hưởng đến kết quả TTTON.
Từ khóa: GnRH đồng vận, GnRH đối vận, hội chứng quá kích buồng trứng
ABSTRACT
USE OF GnRH AGONIST INSTEAD OF hCG IN TRIGGERING FINAL OOCYTE MATURATION IN
GnRH ANTAGONIST PROTOCOL
Giang Huynh Nhu, Vuong Thi Ngoc Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 175 - 179
Objective: To investigate the efficacy of GnRH agonist instead of hCG in triggering final oocyte maturation
in GnRH antagonist protocol in patients at high risk of ovarian hyperstimulation.
Methods: This was a case series study which was conducted on 33 IVF patients at high risk of OHSS.
Ovarian stimulation was performed with GnRH antagonist protocol. On day of hCG, patients who had > 20
follicles >/= 15mm and E2 concentration > 10000 pg/mL received 0.2 mg triptorelin instead of hCG for triggering
final oocyte maturation. Oocyte retrieval was performed 36 hours after triptorelin administration. Embryo
transfer (ET) was performed 48 hours after oocyte retrieval. Luteal phase was supported with vaginal and
intramuscular progesterone, oral estradiol from the day of oocyte retrieval.
Results: There were 33 cycles in 33 patients recruited in the study. The number of oocytes retrieved was
20.27 ± 6.56. Fresh embryo transfer was done for all the patients in the study. The implantation rate was 18.61%.
The clinical pregnancy and miscarriage rates were 45.5% (15/33), and 6.06% (2/33), respectively. None of the
* Đơn vị Hỗ trợ sinh sản – IVFAS – Bệnh viện đa khoa An Sinh
** Bộ môn Phụ Sản – Khoa Y – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Bs. Giang Huỳnh Như ĐT: 0121323172 Email: giangnhu80@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 177
patients in the study developed any form of OHSS.
Conclusions: The use of GnRH agonist for triggering final oocyte maturation in the GnRH antagonist
ovarian hyperstimulation protocol could be a safe and effective method for OHSS prevention without affecting the
reproductive outcomes.
Keywords: GnRH agonist, GnRH antagonist, ovarian hyperstimulation syndrome.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng quá kích buồng trứng (HCQKBT)
là biến chứng nghiêm trọng trong kích thích
buồng trứng (KTBT) làm thụ tinh trong ống
nghiệm (TTTON). Khoảng 5 – 10% các chu kỳ
TTTON có HCQKBT, trong đó những trường
hợp nặng cần nhập viện chiếm 2 – 3%. Human
chorionic gonadotropin (hCG) đã được chứng
minh là tác nhân quan trọng trong cơ chế bệnh
sinh của HCQKBT. Trong TTTON, hCG thường
được sử dụng thay thế LH nội sinh để kích thích
sự trưởng thành noãn và tạo điều kiện cho thủ
thuật chọc hút noãn. Do đó, một trong những
biện pháp tránh QKBT là không sử dụng hCG,
hoặc (1) hủy chu kỳ điều trị hoặc (2) kích thích
tạo đỉnh LH nội sinh gây trưởng thành noãn.
Nghiên cứu cho thấy nguy cơ HCQKBT có
thể được loại trừ hoàn toàn trong phác đồ
GnRH đối vận bằng cách sử dụng GnRH đồng
vận để tạo đỉnh LH nội sinh thay cho hCG(6).
Trong phác đồ GnRH này, GnRH đối vận gây
tác động ức chế đỉnh LH nội sinh bằng cách
cạnh tranh với thụ thể của GnRH nội sinh ở
tuyến yên. Sự gắn kết GnRH đối vận vào thụ thể
ở tuyến yên có đặc tính gắn kết nhanh và giải
phóng thụ thể cũng nhanh mà không gây điều
hòa giảm thụ thể. Tận dụng đặc điểm này,
GnRH đồng vận được sử dụng trong chu kỳ
dùng phác đồ GnRH đối vận để kích thích tạo
đỉnh LH nội sinh gây trưởng thành noãn. Tuy
nhiên, do thời gian bán hủy của LH nội sinh
ngắn, làm giảm đáng kể lượng gonadotrophins
phóng thích từ tuyến yên, từ đó làm giảm hoạt
động của hoàng thể và tiêu hủy hoàng thể sớm.
Do đó, trong những nghiên cứu ban đầu về vấn
đề này cho thấy gây trưởng thành noãn bằng
GnRH đồng vận làm giảm tỉ lệ có thai và tăng tỉ
lệ sẩy thai(3). Nhiều tác giả đã đề nghị trữ phôi
toàn bộ trong những chu kỳ này và thực hiện
chuyển phôi trữ trong chu kỳ kế tiếp(2). Để hạn
chế việc phải trữ phôi toàn bộ và nâng cao tỉ lệ
có thai, một số phác đồ hỗ trợ giai đoạn hoàng
thể đã và đang được nghiên cứu nhằm đem lại tỉ
lệ có thai tương đương so với gây trưởng thành
noãn bằng hCG.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng
GnRH đồng vận thay hCG khởi động trưởng
thành noãn ở những chu kỳ KTBT bằng GnRH
đối vận có nguy cơ cao QKBT nhằm đánh giá
hiệu quả dự phòng QKBT cũng như tỉ lệ có thai
trên những chu kỳ chuyển phôi tươi.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả của sử dụng GnRH đồng
vận thay hCG cho những bệnh nhân có nguy cơ
cao HCQKBT để khởi động trưởng thành noãn
ở những chu kỳ sử dụng phác đồ GnRH đối
vận.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo loạt ca
Trong thời gian từ 4/2009 – 10/2010, chúng
tôi đã sử dụng GnRH đồng vận để khởi động
trưởng thành noãn cho 33 trường hợp TTTON
được KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận có
nguy cơ cao HCQKBT.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tất cả những bệnh nhân được KTBT để làm
TTTON bằng phác đồ GnRH đối vận có > 20
nang 15 mm và nồng độ E2 trên 10000 pg/ml
vào ngày 9 của KTBT.
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân được KTBT bằng phác đồ GnRH
đối vận. FSH được cho vào ngày 2 của vòng
kinh. Liều FSH tái tổ hợp được chỉ định tùy theo
tuổi, nồng độ FSH cơ bản, số nang noãn thứ cấp
đầu chu kỳ và BMI. GnRH đối vận 0,25mg
(Orgalutran 0,25mg) được cho vào ngày 6 của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 178
kích thích buồng trứng. Bệnh nhân được chẩn
đoán nguy cơ cao HCQKBT khi có > 20 nang
15mm và nồng độ E2 trên 10000 pg/ml vào ngày
tiêm hCG được sử dụng GnRH đồng vận thay
cho để gây trưởng thành noãn. Bệnh nhân được
tiêm triptorelin 0,2mg (Diphereline 0,1mg) khi
có 3 nang 17mm trên siêu âm. Liều tiêm
triptorelin cách liều tiêm GnRH đối vận cuối
cùng > 6 giờ. Bệnh nhân được chọc hút noãn 36
giờ sau. Chuyển phôi được thực hiện vào 2 ngày
sau chọc hút noãn.
Để hỗ trợ giai đoạn hoàng thể, bệnh nhân
được sử dụng 6mg estradiol/ngày (Progynova
2mg) phối hợp với progesterone bơm âm đạo
(Crinone 8% gel) 2 ống/ngày kèm progesterone
tiêm bắp 100 mg/ngày từ ngày chọc hút noãn.
Thời gian sử dụng thuốc kéo dài 14 ngày sau
chuyển phôi. Nếu bệnh nhân có thai (βhCG
dương tính), bệnh nhân sẽ được tiếp tục sử
dụng liều thuốc trên kéo dài đến khi thai 7 tuần.
Thử thai được tiến hành 14 ngày sau chuyển
phôi (định lượng beta hCG trong máu). Thai lâm
sàng được chẩn đoán khi túi thai trong tử cung
có phôi thai và hoạt động tim thai vào thời điểm
3 tuần sau thử thai.
KẾT QUẢ
Từ tháng 4/2009 đến tháng 10/2010 có 33
trường hợp sử dụng phác đồ GnRH đối vận có
nguy cơ cao HCQKBT được khởi động trưởng
thành noãn bằng GnRH đồng vận. Đặc điểm
bệnh nhân được mô tả trong bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi trung bình 33,76 ± 3,35
FSH cơ bản 6,79 ± 2,32
BMI 20,54 ± 1,34
AFC 11,78 ± 2,54
Chỉ định TTTON
PCOS 14 (42,4%)
Tai vòi 3 (9,1%)
Do nam 14 (42,4%)
Khác 2 (6,1%)
Bảng 2: Đặc điểm chu kỳ điều trị
Thời gian KTBT 12,73 ± 4,2
Liều đầu FSH sử dụng 150 ± 73,95
Tổng liều FSH sử dụng 1833,33 ± 708,26
Số nang noãn > 15mm 23,67 ± 5,78
Nồng độ E2 14286,42 ± 3412,54
Độ dày NMTC 12,78 ± 1,24
Bảng 3: Kết quả điều trị
Số noãn CH trung bình 20,27 ± 6,56
Số noãn trưởng thành 16,67 ± 6,63
Số phôi 12,09 ± 5,93
Số phôi tốt 7,52 ± 4,98
Số phôi chuyển 3,91 ± 0,77
Số phôi trữ 5,82 ± 4,43
Thai lâm sàng 45,45% (15/33)
Sẩy thai 6,06% (2/33)
Tỉ lệ làm tổ 18,61%
HCQKBT 0%
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy sử dụng GnRH
đồng vận để kích thích trưởng thành noãn trong
phác đồ GnRH đối vận ở những bệnh nhân có
nguy cơ cao HCQKBT làm giảm nguy cơ
HCQKBT ở những bệnh nhân này. Hơn thế nữa,
phác đồ này không làm ảnh hưởng lên tỉ lệ làm
tổ và thai lâm sàng nếu như bệnh nhân được hỗ
trợ giai đoạn hoàng thể và giai đoạn sớm của
thai kỳ phù hợp.
Cho đến hiện tại, có nhiều biện pháp đã
được áp dụng để dự phòng HCQKBT, nhưng
chưa biện pháp nào có thể hạn chế hoàn toàn
biến chứng này. Bản thân phác đồ GnRH đối
vận cũng làm giảm nguy cơ HCQKBT, nhưng
cũng không thể loại bỏ được hội chứng này. Ưu
điểm lớn nhất của phác đồ GnRH đối vận là có
thể sử dụng GnRH đồng vận để kích thích
trưởng thành noãn thay cho hCG - điều kiện đủ
để gây nên HCQKBT - do tác dụng cạnh tranh
ức chế của phác đồ này vẫn cho phép GnRH
đồng vận tác dụng lên tuyến yên gây ra đỉnh
LH và FSH. Mặc dù trên lý thuyết, sử dụng
GnRH đồng vận để kích thích trưởng thành
noãn không thể giúp dự phòng HCQKBT muộn,
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng như các
tác giả khác không ghi nhận được trường hợp
HCQKBT nào khi sử dụng phác đồ này(0, 5).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 179
Thông thường, khi dùng GnRH để kích
thích sự trưởng thành noãn, GnRH đồng vận
được sử dụng 12 giờ sau lần tiêm cuối cùng của
GnRH đối vận(1). Nồng độ LH và FSH lần lượt
bắt đầu tăng 4 và 12 giờ sau khi sử dụng GnRH
đồng vận. Mặc dù vậy, đỉnh LH của GnRH
đồng vận khác với đỉnh LH trong chu kỳ tự
nhiên. Đỉnh LH trong chu kỳ tự nhiên gồm có 3
pha, kéo dài trong 48 giờ trong khi đỉnh LH của
GnRH đồng vận chỉ gồm 2 pha, kéo dài trong
24-36 giờ(4). Những giả thuyết ban đầu cho là với
thời gian hoạt động ngắn của LH nội sinh có thể
sẽ làm giảm chất lượng của noãn và sự phát
triển của phôi. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho
thấy tỉ lệ noãn MII thu được, tỉ lệ thụ tinh, chất
lượng phôi đều như nhau giữa 2 nhóm(3). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, do những đặc thù
riêng nên bệnh nhân thường tiêm thuốc KTBT
vào buổi chiều, và GnRH đồng vận được sử
dụng vào buổi tối, sao cho khoảng cách giữa lần
tiêm thuốc KTBT sau cùng và lần tiêm GnRH
đồng vận cách nhau > 6 giờ. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu cũng rất khả quan về số noãn thu
được, số noãn MII, tỉ lệ thụ tinh và số phôi tốt.
Đồng tình với các tác giả khác, nghiên cứu
của chúng tôi góp phần khẳng định về khả năng
của GnRH đồng vận để kích thích trưởng thành
noãn sau cùng. Mặc dù vậy, đã có những quan
ngại về sự yếu kém của đỉnh nội tiết tạo ra bởi
GnRH đồng vận làm ảnh hưởng lên giai đoạn
hoàng thể, từ đó, ảnh hưởng lên kết quả
TTTON. Những nghiên cứu lâm sàng ngẫu
nhiên có nhóm chứng đầu tiên cho thấy tỉ lệ có
thai ở chu kỳ chuyển phôi tươi trong nhóm khởi
động trưởng thành noãn bằng GnRH đồng vận
thấp hơn nhiều so với sử dụng hCG(3, 7). Một số
tác giả đề nghị nên trữ phôi toàn bộ và thực hiện
chuyển phôi trữ lạnh ở những chu kỳ sau(2) dù
thực tế lâm sàng cho thấy giải pháp này không
thuận tiện cho bệnh nhân và góp phần làm tăng
chi phí điều trị.
Những thử nghiệm lâm sàng đầu tiên cho
thấy tỉ lệ có thai thấp khi hỗ trợ giai đoạn hoàng
thể tương tự những phác đồ hỗ trợ hoàng thể
cho bệnh nhân xin trứng và chuyển phôi trữ(3, 7).
Tuy nhiên, không thể xem những trường hợp
khởi động bằng GnRH đồng vận giống chuyển
phôi trữ hay xin trứng. Giai đoạn sớm của pha
hoàng thể ở bệnh nhân xin trứng cũng như
chuyển phôi trữ nồng độ steroid sinh lý vẫn có
giống như trong những chu kỳ tự nhiên. Ngược
lại, nồng độ steroid ở giai đoạn hoàng thể trong
những chu kỳ kích thích tăng cao sẽ phản hồi
âm lên trục hạ đồ – tuyến yên – buồng trứng,
giảm đáng kể sự tiết LH ảnh hưởng lên chức
năng hoàng thể và nội mạc tử cung(5,8). Trong
nghiên cứu của Humaidan và Kolibianakis, tác
giả chỉ sử dụng progesterone đặt âm đạo và
estradiol uống từ ngày chọc hút trứng cho đến
ngày thử thai(3). Cho đến hiện tại, đường dùng
hiệu quả nhất của cả progesterone và estradiol
vẫn còn nhiều tranh cãi. Sử dụng progesterone
tiêm bắp và estradiol dán qua da được ưa
chuộng hơn trong phác đồ sử dụng GnRH đồng
vận để kích thích trưởng thành noãn do pha
hoàng thể trong trường hợp này bị khiếm
khuyết và sử dụng estradiol dán qua da tránh
được sự chuyển hóa của thuốc tại gan. Nghiên
cứu của Engmann sử dụng phối hợp estradiol
dán qua da và progesterone tiêm bắp
75mg/ngày trong pha hoàng thể ở 30 bệnh nhân
nguy cơ QKBT ghi nhận không có trường hợp
QKBT nào và tỉ lệ thai lâm sàng cao(1). Do đó, hỗ
trợ giai đoạn hoàng thể đóng vai trò quan trọng
quyết định sự thành công trong chu kỳ phôi
tươi. Trong nghiên cứu này, do điều kiện thời
tiết Việt Nam nóng và ẩm, không thuận lợi cho
dùng estradiol dán, để hỗ trợ giai đoạn hoàng
thể, chúng tôi sử dụng estradiol đường uống
liều cao kết hợp với progesterone tiêm bắp
100mg/ngày. Chúng tôi thực hiện chuyển phôi
tươi cả 33 trường hợp và cho thấy tỉ lệ có thai
lâm sàng tương đối khả quan 45,45% (15/33) và
không có trường hợp nào sẩy thai trước 12 tuần.
Với kết quả bước đầu đạt được, tại trung
tâm chúng tôi, phác đồ này đang được áp dụng
cho tất cả các trường hợp xin – cho noãn để làm
giảm nguy cơ HCQKBT cho người cho noãn
đồng thời tránh được những ảnh hưởng bất lợi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 180
(nếu có) của loại phác đồ này lên kết quả có thai
của người xin noãn.
KẾT LUẬN
Sử dụng GnRH đồng vận thay hCG khởi
động trưởng thành noãn trong chu kỳ GnRH
đối vận là một giải pháp an toàn, hiệu quả tránh
QKBT ở những chu kỳ có nguy cơ cao QKBT.
Hỗ trợ hoàng thể bằng cách tăng liều steroid
ngoại sinh có thể giúp duy trì tỉ lệ thành công
trên những chu kỳ phôi tươi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Engmann L, DiLuigi A, Schmidt D, Nulsen J, Maier D, Benadiva
C (2008). The use of gonadotropin-releasing hormone (GnRH)
agonist to induce oocyte maturation after cotreatment with
GnRH antagonist in high-risk patients undergoing in vitro
fertilization prevents the risk of ovarian hyperstimulation
syndrome: a prospective randomised controlled study. Fertility
and Sterility, 89:84–91.
2. Griesinger G, Von Otte S, Schroer A, Ludwig AK, Diedrich K,
Al-Hasani S, Schultze-Mosgau A (2007). Elective
cryopreservation of all pronuclear oocytes after GnRH agonist
triggering of final oocyte maturation in patients at risk of
developing OHSS: a prospective observational proof-of-concept
study. Human Reproduction, 22:1348–1352.
3. Humaidan P, Ejdrup Bredkjær H, Bungum L, Bungum M,
Grøndahl ML, Westergaard LG, Yding Andersen C (2005).
GnRH agonist (Buserelin) or hCG for ovulation induction in
GnRH antagonist IVF/ICSI cycles: a prospective randomised
study. Human Reproduction, 20:1213–1220.
4. Humaidan P, Papanikolaou E.G, and Tarlatzis B.C (2009).
GnRHa to trigger final oocyte maturation: a time to reconsider.
Human Reproduction, 24: 2389–2394.
5. Humaidan P, Bredkjær HE, Westergaard LG, Andersen CY
(2010). 1,500 IU human chorionic gonadotropin administered at
oocyte retrieval rescues the luteal phase when gonadotropin-
releasing hormone agonist is used forovulation induction: a
prospective, randomized controlled study. Fertility and Sterility,
93: 847-854.
6. Itskovitz J, Boldes R, Levron J, Erlik Y, Kahana L, Brandes JM
(1991). Induction of preovulatory luteinizing hormone surge and
prevention of ovarian hyperstimulation syndrome by
gonadotropin-releasing hormone agonist. Fertility and Sterility,
56:213–220.
7. Kolibianakis EM, Schultze-Mosgau A, Schroer A, Van
Steirteghem A, Devroey P, Diedrich K, Griesinger G (2005). A
lower ongoing pregnancy rate can be expected when GnRH
agonist is used for triggering final oocyte maturation instead of
hCG in patients undergoing IVF with GnRH antagonist. Human
Reproduction, 20:2887–2892.
8. Tavaniotou A, Devroey P (2006). Luteal hormonal profile of
oocyte donors stimulated with a GnRH antagonist compared
with natural cycles. Reprod Biomed Online, 3:326–330.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 181
ÁP DỤNG KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH NOÃN
CHO CÁC TRƯỜNG HỢP KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG
CÓ NGUY CƠ CAO QUÁ KÍCH BUỒNG TRỨNG
Phùng Huy Tuân*, Vương Thị Ngọc Lan**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả kỹ thuật trưởng thành noãn trong những chu kỳ kích thích buồng trứng thụ
tinh ống nghiệm (TTTON) có nguy cơ cao quá kích buồng trứng (QKBT).
Phương pháp: Báo cáo loạt ca các trường hợp bệnh nhân kích thích buồng trứng TTTON có nguy cơ
cao QKBT được thực hiện IVM tại IVF Vạn Hạnh. Bệnh nhân được kích thích buồng trứng (KTBT) bằng
phác đồ down-regulation. Nguy cơ cao QKBT được chẩn đoán khi bệnh nhân có trên 20 nang từ 10 - <
14mm trên 2 buồng trứng khi siêu âm và nồng độ estradiol > 2000 pg/ml vào ngày 6 của KTBT. Bệnh nhân
được dừng KTBT và chuyển sang thực hiện IVM. Bệnh nhân được tiêm hCG 10.000 IU, sau đó, chọc hút
lấy noãn non 36 giờ sau tiêm hCG. Trưởng thành noãn được thực hiện trong 24 giờ, thụ tinh bằng kỹ
thuật ICSI, chuyển phôi 2 ngày sau ICSI.
Kết quả: Có 30 trường hợp nguy cơ cao QKBT được chuyển IVM. Tuổi trung bình là 30,38 ± 3,1. Số
lượng noãn chưa trưởng thành thu được là 21,75 ± 9,13. Tỉ lệ trưởng thành noãn sau IVM là 72,3%, số phôi
trung bình là 11,63 ± 8,51. Tất cả bệnh nhân đều được chuyển phôi, với tỉ lệ thai lâm sàng là 50% và không ghi
nhận trường hợp QKBT nào.
Kết luận: Áp dụng IVM cho các trường hợp nguy cơ cao QKBT an toàn và hiệu quả. Chuyển IVM có thể là
một giải pháp tránh QKBT cho các trường hợp KTBT bằng phác đồ dài.
Từ khóa: Thụ tinh ống nghiệm (TTTON), kỹ thuật trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM), hội chứng
quá kích buồng trứng (QKBT).
ABSTRACT
RESCUE IN-VITRO MATURATION OF OOCYTES (IVM) IN STIMULATED IVF/ICSI CYCLES AT
HIGH RISK OF OVARIAN HYPERSTIMULATION
Phung Huy Tuan, Vuong Thi Ngoc Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 180 - 184
Objective: To assess the efficacy and safety of rescue IVM in stimulated IVF/ICSI cycles at high risk of
developing ovarian hyperstimulation syndrome (OHSS).
Method: This was a case-series study involving the cycles undergoing ovarian stimulation for IVF/ICSI
treatment and having high risk of OHSS at IVF VanHanh. Ovarian stimulation was performed with down-
regulation protocol. High risk of OHSS was defined as cycles had >/= 20 follicles of 10 - < 14 mm in both ovaries
and estradiol level was over 2000 pg/ml on day 6 of stimulation. Cycles had ovarian stimulation stopped and was
converted to IVM. hCG 10,000 IU was administered. Immature oocyte pick-up was performed 36 hours after
hCG. IVM process lasted for 24 hours, insemination was done by ICSI, embryo transfer was 2 days af