Đặt vấn đề: Ghép thận đã trở thành phẫu thuật thường quy ở một số bệnh viện tại Việt Nam hiện nay. Biến chứng niệu khoa sau ghép thận có tỷ lệ thấp, tuy nhiên khi xuất hiện có thể ảnh hưởng đến chức năng mảnh ghép. Đề tài nhằm mục tiêu khảo sát các biến chứng niệu khoa sau ghép thận từ người cho sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp ghép thận tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 6 năm 2011. Các bệnh nhân được cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir có cải biên. Theo dõi các biến chứng niệu khoa sau ghép qua siêu âm, chụp CT-Scan, xét nghiệm nước tiểu ở tất cả các bệnh nhân sau ghép. Kết quả và bàn luận: Có 37 trường hợp được ghép thận từ người cho sống. Tuổi hiến thận chủ yếu từ 20- 39 tuổi (75,68%), tỷ lệ nam/nữ là 27/10. Tuổi nhận thận chủ yếu từ 30-49 (56,75%), tỷ lệ nam/nữ là 20/17. Tỷ lệ lấy thận trái/phải là: 29/8. Tỷ lệ ghép vào hố chậu phải/hố chậu trái: 27/10. 100% các trường hợp cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir cải biên. Có 19 trường hợp được đặt sonde JJ niệu quản, 18 trường hợp không đặt sonde JJ. Tỷ lệ xì dò nước tiểu là: 1 trường hợp (2,7%). Nhiễm khuẩn niệu là 4 trường hợp (10,8%). Không có trường hợp nào tử vong do biến chứng niệu khoa. Kết luận: Biến chứng niệu khoa sau ghép thận có tỷ lệ thấp. Việc đặt sonde JJ niệu quản không cần thiết một cách hệ thống. Với kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang theo Lich-Grégoir cải biên là kỹ thuật an toàn, có thể áp dụng rộng rãi.
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng niệu khoa sau ghép thận, kết quả 37 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện nhân dân 115, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 222
BIẾN CHỨNG NIỆU KHOA SAU GHÉP THẬN,
KẾT QUẢ 37 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Trương Hoàng Minh*, Trần Thanh Phong*, Đỗ Anh Đức*, Trương Sỹ Vinh*, Trần Lê Duy Anh*,
Lê Đình Hiếu*, Nguyễn Thúy Quỳnh Mai*, Tạ Phương Dung**, Phạm Mạnh Sùng**, Phạm Văn Bùi***,
Hồ Thị Minh Châu****, Nguyễn Phước Hải****, Nguyễn Bá Hải****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ghép thận đã trở thành phẫu thuật thường quy ở một số bệnh viện tại Việt Nam hiện nay. Biến
chứng niệu khoa sau ghép thận có tỷ lệ thấp, tuy nhiên khi xuất hiện có thể ảnh hưởng đến chức năng mảnh
ghép. Đề tài nhằm mục tiêu khảo sát các biến chứng niệu khoa sau ghép thận từ người cho sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp ghép thận tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ
tháng 3 năm 2004 đến tháng 6 năm 2011. Các bệnh nhân được cắm niệu quản vào bàng quang theo phương
pháp Lich-Grégoir có cải biên. Theo dõi các biến chứng niệu khoa sau ghép qua siêu âm, chụp CT-Scan, xét
nghiệm nước tiểu ở tất cả các bệnh nhân sau ghép.
Kết quả và bàn luận: Có 37 trường hợp được ghép thận từ người cho sống. Tuổi hiến thận chủ yếu từ 20-
39 tuổi (75,68%), tỷ lệ nam/nữ là 27/10. Tuổi nhận thận chủ yếu từ 30-49 (56,75%), tỷ lệ nam/nữ là 20/17. Tỷ
lệ lấy thận trái/phải là: 29/8. Tỷ lệ ghép vào hố chậu phải/hố chậu trái: 27/10. 100% các trường hợp cắm niệu
quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir cải biên. Có 19 trường hợp được đặt sonde JJ niệu quản, 18
trường hợp không đặt sonde JJ. Tỷ lệ xì dò nước tiểu là: 1 trường hợp (2,7%). Nhiễm khuẩn niệu là 4 trường hợp
(10,8%). Không có trường hợp nào tử vong do biến chứng niệu khoa.
Kết luận: Biến chứng niệu khoa sau ghép thận có tỷ lệ thấp. Việc đặt sonde JJ niệu quản không cần thiết một
cách hệ thống. Với kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang theo Lich-Grégoir cải biên là kỹ thuật an toàn, có thể
áp dụng rộng rãi.
Từ khóa: Biến chứng niệu khoa, ghép thận
ABSTRACT
UROLOGICAL COMPLICATIONS FOLLOWING RENAL TRANSPLANTATION, RESULTS 37 CASES
OF LIVING RELATED RENAL TRANSPLANTATION AT PEOPLE 115 HOSPITAL
Truong Hoang Minh, Tran Thanh Phong, Do Anh Duc, Truong Sy Vinh, Tran Le Duy Anh,
Le Dinh Hieu, Nguyen Thuy Quynh Mai, Ta Phuong Dung, Pham Manh Sung, Pham Van Bui,
Ho Thi Minh Chau, Nguyen Phuoc Hai, Nguyen Ba Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 221 – 228
Background: Renal transplantation was the operation regular in Vietnam. Urological complications
following renal transplantation are low, however it may to influence on graft survival. We evaluated urological
* Khoa Ngoại Niệu-Ghép Thận - Bệnh viện Nhân Dân 115
** Khoa Nội Thận-Miễn Dịch Ghép - Bệnh viện Nhân Dân 115
*** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, **** Khối Thận-Niệu - Bệnh viện Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: Ths.Bs.Trương Hoàng Minh ĐT:0903982107 Email: truonghminh2000@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 223
complications following renal transplantation.
Materials and Methods: Patients were operated renal transplantation at people 115 hospital from March
2004 to June 2011. The ureter was inserted into the bladder with Lich-Grégoir technique has a modification.
Determine urological complications by Echo, CT-Scan, analyse urinary.
Results: All 37 renal transplantations from living donor performed. The essential donor age: 20-39
(75.68%), Rate male/female: 27/10. The essential receiver age: 30-49 (56.75%), Rate male/female: 20/17. Rate
nephrectomy for living donor left/right: 29/8. Rate implant fosse iliac right/left: 27/10. 100% cases were inserted
into the bladder with Lich-Grégoir technique has a modification. 19 cases were introduced stent, 18 cases not were
introduced stent. Rate urinary leaks: 1 patient (2.7%). Rate of urinary infection: 4 patients (10.8%). Not patient
mortal concern urological complications.
Conclusions: Rate of urological complications following renal transplantation was low. Routine Double –J
stenting prevents urological complication is not necessary systematically. The anastomosis uretero- vesical with
Lich-Grégoir technique was safe, capable of practice extensive.
Key words: Urological complication, Renal transplantation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận đã trở thành một phẫu thuật
thường quy ở một số bệnh viện hiện nay tại Việt
Nam. Biến chứng niệu khoa sau ghép thận tuy
xuất hiện ít, từ 1-15% tùy theo từng trung tâm
(Loughlin et al)(2,4,8,10,13), tuy nhiên, khi biến
chứng niệu khoa xuất hiện nó thực sự đe doạ
đến chức năng mảnh ghép và đôi khi ảnh
hưởng đến tính mạng người bệnh khi những
bệnh nhân này đang sử dụng thuốc ức chế miễn
dịch. Các biến chứng niệu khoa sau ghép thận
bao gồm: dò nước tiểu, hẹp niệu quản, sỏi niệu,
bí tiểu, và rối loạn cương dương Việc phòng
ngừa, chẩn đoán và điều trị sớm sẽ mang lại kết
quả khả quan và bảo vệ được chức năng thận
ghép. Bệnh viện Nhân Dân 115 đã thực hiện
ghép thận từ năm 2004, cho tới nay chúng tôi đã
thực hiện được 37 trường hợp ghép thận và trở
thành phẫu thuật thường quy. Do vậy, chúng
tôi thực hiện đề tài này nhằm đánh giá tỷ lệ biến
chứng niệu khoa sau ghép thận, rút ra những
kinh nghiệm bước đầu trong chẩn đoán và điều
trị sớm góp phần nâng cao kết quả điều trị ghép
thận tại bệnh viện Nhân Dân 115.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp ghép thận tại bệnh
viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến
tháng 6 năm 2011.
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu mô tả các trường hợp lâm sàng.
Phương pháp nghiên cứu
Việc thực hiện ghép thận được thực hiện
theo quy trình ghép thận của bệnh viện Nhân
Dân 115 dựa trên quy trình ghép thận của Bộ Y
tế năm 2002.
Sau khi được tư vấn ghép thận cả người cho
thận và người nhận thận kỹ càng, bệnh nhân ký
cam kết mổ ghép theo đúng thủ tục pháp lý.
Việc lấy thận được thực hiện qua mổ mở
hoặc mổ nội soi.
Thận được lấy ra khỏi người cho và rửa
bằng dung dịch Euro-Collins ở nhiệt độ 4 độ
Celcius hoặc dung dịch HTK-Custodial.
Thận ghép được đặt vào hố chậu phải hoặc
trái ở người nhận thận, tĩnh mạch thận ghép
cắm vào tĩnh mạch chậu chung hoặc tĩnh mạch
chậu ngoài tùy từng trường hợp. Động mạch
thận ghép được thông nối với động mạch chậu
trong (tận-tận) hoặc động mạch chậu ngoài hay
chậu chung (tận- bên) tùy từng trường hợp.
Niệu quản được cắm vào bàng quang theo
phương pháp Lich-Gregoir: cho vào bàng quang
250-300 ml nước muối sinh lý có pha Betadine
loãng để nhận mầu, xẻ thành bàng quang bằng
dao điện theo hướng về cổ bàng quang dài 3-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 224
4cm cho tới niêm mạc bàng quang lộ ra thì dừng
lại. Bóc tách phần dưới niêm mạc đủ rộng để
cho niệu quản nằm vừa đủ. Xẻ 1 lỗ niêm mạc
bàng quang ở đầu dưới gần cổ bàng quang
đường kính 0,5cm. Tiến hành may thông nối
niệu quản thận ghép (có cắt vát đầu niệu quản
và cột đầu mút mạch máu niệu quản bằng chỉ
vicryl 4/0) với niêm mạc bàng quang quanh lỗ
xẻ niêm mạc bàng quang bằng chỉ PDS 5/0,
chúng tôi có cải biên cách may so với Lich-
Gregoir cổ điển như sau:
+ Chúng tôi may mối may liên tục 2 nửa
miệng niệu quản bằng chỉ PDS 5/0.
+ 2 mối đầu mút niệu quản được may với
toàn bộ thành bàng quang, sau đó là may thành
niệu quản với niêm mạc bàng quang.
+ May lại thành bàng quang bằng 3 mối chỉ
Vicryl mối rời tại vị trí không may với niệu quản
sau khi đặt đầu mũi kéo phẫu tích ở dưới để
tránh xiết chặt đường hầm dưới niêm mạc và để
cho niệu quản nằm dưới niêm mạc, đoạn niệu
quản này có tác dụng chống trào ngược nước
tiểu bàng quang-niệu quản.
+ Tùy theo từng trường hợp (tình trạng niệu
quản khi lấy thận, tưới máu niệu quản sau khi
mở kẹp cuống mạch máu thận ghép) mà quyết
định đặt sonde JJ niệu quản hay không.
(Hình: Cắm niệu quản vào bàng quang theo Lich-Grégoir có cải biên)
Phác đồ thuốc ức chế miễn dịch: Ức chế
calcineurin (CsA hoặc Tacrolimus) + MMF
(Cellcept) + Steroid (Prednisolon) + dẫn nhập
(Simulect) tùy theo từng trường hợp.
Chúng tôi ghi nhận các biến chứng niệu
khoa sau mổ và kết quả điều trị các biến chứng.
Các bệnh nhân sau mổ được tái khám 1
lần/tuần, ghi nhận các biến chứng nếu có, cho
siêu âm, thử nước tiểu, nếu nghi ngờ cho chụp
bàng quang có bơm thuốc cản quang, ghi nhận
kết quả điều trị các biến chứng theo hồ sơ bệnh
án. Lập bệnh án nghiên cứu, ghi đầy đủ các
thông số nghiên cứu.
Sử lý số liệu với phần mềm SPSS 11.5. Biến
số định tính được trình bày dưới tỷ lệ %, biến số
định lượng trình bày dưới dạng số trung bình
và độ lệch chuẩn.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 6 năm 2011,
chúng tôi thực hiện được 37 trường hợp ghép
thận từ người cho sống.
Một số đặc điểm lâm sàng của người cho
thận
Đặc điểm lâm sàng Số trường
hợp
Tỷ lệ %
Tuổi <20 2 5,4
20-29 17 45,95
30-39 11 29,73
40-49 5 13,52
50-59 2 5,4
Giới tính Nam 27 72,97
Nữ 10 27,03
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 225
Đặc điểm lâm sàng Số trường
hợp
Tỷ lệ %
Quan hệ
người cho-
người nhận
thận
Mẹ ruột cho con 1 2,7
Anh chị em ruột
cho nhau
7 18,92
Con dâu cho mẹ
chồng
1 2,7
Cháu cho dì
/cô/bà
11 29,73
Anh em họ cho
nhau
17 45,95
Vị trí lấy thận Thận phải 8 21,62
Thận trái 29 78,38
Kỹ thuật cắt
thận
Mổ hở 31 83,78
Nội soi ổ bụng 6 16,22
Số lượng
động mạch
thận
1 29 78,38
2 8 21,62
Biến chứng
trong mổ
Rách màng phổi 7 18,91
Tuột kẹp động
mạch hoặc tĩnh
mạch thận
3 8,1
Biến chứng
sau mổ
Tràn máu màng
phổi
1 2,7
Nhiễm khuẩn vết
mổ
2 5,4
Tử vong 0 0
Độ tuổi hiến thận đa phần là tuổi lao động
(20- 40 tuổi), nam nhiều hơn nữ, đa số anh em
hiến cho nhau. Chủ yếu lấy thận trái ghép vào
hố chậu phải cho người nhận. Có 16,22% là lấy
thận qua nội soi ổ bụng, đây là kỹ thuật làm
giảm sự đau đớn cho bệnh nhân sau mổ, có tính
thẩm mỹ cao. Tuy nhiên đòi hỏi phẫu thuật viên
phải được đào tạo cơ bản về nội soi ổ bụng, có
kinh nghiệm và chi phí cao hơn mổ mở. Chúng
tôi có 3 trường hợp tuột kẹp mỏm mạch máu
sau khi đã lấy thận ra khỏi người cho, có 1
trường hợp tuột kẹp động mạch, còn 2 trường
hợp còn lại là tuột kẹp tĩnh mạch. Cả 3 trường
hợp xảy ra do dụng cụ kẹp mạch máu không
đồng bộ. Chúng tôi đã sử trí kịp thời và không
có trường hợp nào tử vong. Có 7 trường hợp tổn
thương màng phổi do quá trình mở thành bụng,
đây là những trường hợp đầu tiên chúng tôi
chưa có kinh nghiệm, may lại màng phổi, hậu
phẫu bệnh ổn. Có 2 trường hợp nhiễm khuẩn
vết mổ, đây là loạt bệnh nhân đầu tiên chúng tôi
mổ cùng đoàn Bỉ, sử dụng kháng sinh dự phòng
nhưng thất bại, khi phát hiện nhiễm khuẩn vết
mổ, bệnh nhân sốt, bạch cầu/máu tăng, CRP
tăng, chúng tôi sử dụng lại kháng sinh bệnh ổn
định.
Một số đặc điểm lâm sàng của người nhận thận
Đặc điểm lâm sàng Số trường hợp Tỷ lệ %
Tuổi 20-29 6 16,21
30-39 12 32,43
40-49 9 24,32
50-59 6 16,21
60-69 4 10,83
Giới tính Nam 20 54,05
Nữ 17 45,95
Nguyên nhân suy thận
mạn
Bệnh cầu thận mạn 24 64,86
Bệnh thận do Lupus 1 2,7
Bệnh thận do Gout 1 2,7
Bệnh thận tiểu đường 3 8,1
Bệnh thận cao huyết áp 5 13,54
Thận đa nang 2 5,4
Bệnh đường niệu 1 2,7
Điều trị trước ghép thận Chạy thận nhân tạo 29 78,38
Thẩm phân phúc mạc 4 10,81
Vừa CTNT + TPPM 1 2,7
Điều trị nội khoa 3 8,11
Vị trí đặt thận ghép Hố chậu phải 27 72,97
Hố chậu trái 10 27,03
Khâu nối động mạch Động mạch chậu ngoài 21 56,75
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 226
Đặc điểm lâm sàng Số trường hợp Tỷ lệ %
Động mạch chậu trong 9 24,32
Động mạch chậu chung 7 18,93
Phẫu thuật tạo hình
mạch máu
Lột bỏ lớp nội mô động mạch 1 2,7
Tạo hình lỗ mở động mạch chậu 2 5,4
Kéo dài động mạch nhờ bóc tách rốn thận 1 2,7
Cắm động mạch cực vào động mạch thận 2 5,4
Nối động mạch cực dưới vào động mạch thượng vị dưới 2 5,4
Cột động mạch cực trên 3 8,1
Đặt thông JJ làm nòng
niệu quản
Có 19 51,35
Không 18 48,65
Phục hồi chức năng thận
sau ghép
Nhanh ngay sau ở kẹp mạch máu 27 72,97
Sau mở kẹp mạch máu 30- 60 phút 7 18,92
Chậm (delayed graft function) 24g 3 8,11
Tương hợp HLA
Tương hợp HLA Số bệnh nhân %
1/6 2 5,4
2/6 4 10,8
3/6 14 37,84
4/6 12 32,43
5/6 4 10,8
6/6 1 2,73
Total 37 100
Thời gian thiếu máu nóng
3 phút 50 (2 phút 45- 7 phút 30)
Biến chứng niệu khoa sau ghép
Chúng tôi gặp 1 bệnh nhân (2,7%) tụ nước
tiểu quanh thận sau ghép 10 ngày, 4 bệnh
nhân (10,8%) nhiễm khuẩn niệu được phát
hiện qua xét nghiệm tế bào học nước tiểu
nhưng không có biểu hiện lâm sàng.Trong đó
3/4 bệnh nhân có đặt sonde JJ ngay trong mổ,
1/4 bệnh nhân không đặt sonde JJ (p= 0,385).
Sau khi điều trị bằng kháng sinh kết quả tốt,
không có trường hợp nào ảnh hưởng đến
chức năng thận ghép. Không có trường hợp
nào bế tắc niệu quản hay trào ngược bàng
quang sau ghép. Không ghi nhận các biến
chứng tràn dịch màng tinh hoàn, hẹp niệu
đạo, rối loạn cương dương sau mổ ghép.
So sánh tỷ lệ biến chứng với các tác giả
Tên tác giả Chúng tôi (2011) Trần Ngọc Sinh et al
(2010)
Daniel. A.S et al
(1995)
Akoh JA et al (2009)
N (Tổng số bn nghiên cứu) 37 (living donors) 201 (living donors) 1000 (deceased) 398 (335 deceased + 43
living donors)
Số bn (tỷ lệ) biến chứng 1 bn (2,7%) 4 bn (1,99%) 71 bn (7,1%) 29 bn (7,3%)
BÀN LUẬN
Theo y văn, ngoài các biến chứng chung của
ghép thận như: nhiễm khuẩn vết mổ (1%), tụ
dịch bạch huyết (Lymphocele 18%), chảy máu,
huyết khối động tĩnh mạch (0,5-8%). Biến chứng
niệu khoa chiếm tỷ lệ thấp, tuy nhiên nó có thể
ảnh hưởng tới chức năng của thận ghép đôi khi
làm mất chức năng và có thể tử vong. Các biến
chứng niệu khoa này bao gồm: xì dò nước tiểu,
bế tắc niệu quản do hẹp chỗ thông nối niệu
quản –bàng quang, hẹp niệu đạo, tràn dịch tinh
mạc, nhiễm khuẩn.
Vấn đề xì dò, tụ nước tiểu quanh thận
Trường hợp này là do hoại tử niệu quản gần
bể thận, đây là trường hợp có đặt sonde JJ dự
phòng ngay trong mổ. Phát hiện vào ngày thứ
10 sau mổ với triệu chứng sốt, đau ở vùng hố
chậu phải nơi đặt thận ghép. Siêu âm và chụp
CT-Scan phát hiện tụ dịch quanh thận. Bệnh
nhân được mổ thám sát lần 1 vào ngày thứ 10
hậu ghép nhưng không phát hiện được chỗ xì
dò, đặt lại dẫn lưu. Mổ lại lần 2 vào ngày thứ 14
hậu ghép phát hiện hoại tử niệu quản gần bể
thận. Chúng tôi tiến hành may lại lỗ thủng,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 227
thám sát thấy niệu quản vẫn tưới máu tốt. Sau
mổ diễn tiến tốt, hết xì dò và rút dẫn lưu ổ mổ
sau đó 3 ngày, sonde JJ rút sau 2 tuần.
- Việc chẩn đoán xì dò niệu quản tương đối
dễ dàng tuy nhiên xác định vị trí xì dò đôi khi
gặp khó khăn. Trường hợp bệnh nhân của
chúng tôi sau khi siêu âm và chụp CT-Scan,
được mổ thám sát lần 1 không phát hiện được vị
trí xì dò mà phải mổ lần 2 mới xác định được vị
trí. Theo Daniel Shoskes, siêu âm chỉ xác định có
tụ dịch quanh thận, xạ hình thận có lợi trong
việc đánh giá vị trí xì dò. Chụp bàng quang có
bơm thuốc cản quang xác định được vị trí xì dò
ở chỗ thông nối niệu quản-bàng quang(9).
- Nguyên nhân xì dò nước tiểu sau ghép
thường:
Do hoại tử niệu quản và sai sót kỹ thuật cắm
niệu quản vào bàng quang. Hoại tử niệu quản
thông thường do quá trình lấy thận không tuân
thủ việc bảo quản lớp mỡ quanh niệu quản
cũng như phần mỡ ở vùng cực dưới thận và bể
thận, đây là nơi có mạch máu xuất phát từ
nhánh động mạch thận nuôi niệu quản. Mặt
khác tưới máu niệu quản không đảm bảo do lấy
niệu quản quá dài.
- Tác giả Trần Ngọc Sinh cũng ghi nhận 4
trường hợp xì dò nước tiểu mà không chẩn
đoán được vị trí xì dò trước khi mổ, chỉ sau khi
mổ mới xác định vị trí và nguyên nhân xì dò là
do thủng niệu quản nghĩ do sử dụng dao đốt
điện một cực. Về sau sử dụng dao bipolar và cột
cầm máu niệu quản bằng chỉ tan đã cải thiện
biến chứng này(14).
- Sai sót kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng
quang như xẻ bàng quang quá nhiều, kỹ thuật
cắm niệu quản vào bàng quang qua ngả bàng
quang, may niệu quản với niêm mạc bàng
quang không kín, niệu quản quá căng hay xoắn
vặnChúng tôi không gặp trường hợp nào xì
dò tại vị trí cắm niệu quản vào bàng quang.
- Tại trung tâm của chúng tôi áp dụng kỹ
thuật cắm niệu quản vào bàng quang qua ngả
ngoài bàng quang với phương pháp Lich-
Gregoir cải biên. Về cơ bản, gần như tuân thủ kỹ
thuật Lich-Grégoir cổ điển. Tuy nhiên chúng tôi
cải biên kỹ thuật may (như phần phương pháp
nghiên cứu đã trình bày) và khi may lớp thành
bàng quang để niệu quản ở dưới niêm mạc một
đoạn, chúng tôi có đặt đầu kéo phẫu tích ở dưới
nhằm tránh chít hẹp tại vị trí đường hầm. Kỹ
thuật Lich-Gregoir cắm niệu quản vào bàng
quang đi ngoài bàng quang cho phép không cần
niệu quản dài nên bảo đảm tưới máu đầu niệu
quản từ mạch máu thận ghép xuống cung cấp
tốt và tránh gập góc niệu quản tạo điều kiện
lành chỗ thông nối được tốt và giảm biến chứng
xì dò.
- Nguyên nhân của trường hợp thủng niệu
quản của chúng tôi không được rõ, cũng có thể
do sử dụng dao điện một cực, mặt khác cũng có
thể do sử dụng sonde JJ mà đầu sonde JJ kích
thích làm thủng niệu quản sát bể thận, tác giả
Kumar A et al cũng ghi nhận(3).
Vấn đề nhiễm khuẩn niệu
4 bệnh nhân của chúng tôi có bạch cầu niệu,
1 trường hợp cấy nước tiểu mọc Proteus. Cả 4
trường hợp không có biểu hiện lâm sang. 3/4
trường hợp xảy ra trên loạt bệnh có đặt sonde
JJ,chỉ 1/4 trường hợp xảy ra trên lô bệnh nhân
không đặt sonde JJ với ghi nhận có bạch cầu
trong nước tiểu, trường hợp này có nước tiểu ở
thận gốc (khoảng 500 ml/ngày), xét nghiệm
nước tiểu trước ghép không ghi nhận nhiễm
khuẩn. Tuy nhiên bệnh nhân không có biểu hiện
lâm sàng và không phát hiện vi khuẩn mọc trên
môi trường nuôi cấy nước tiểu, bệnh ổn sau khi
rút thông tiểu vào ngày thứ 7 sau mổ. Đặt sonde
JJ hệ thống là nguyên nhân hàng đầu đưa tới
nhiễm khuẩn niệu(5).
Vấn đề bế tắc niệu quản và trào ngược
bàng quang –niệu quản
Chúng tôi chưa gặp trường hợp nào. Việc
đặt sonde JJ phòng ngừa biến chứng hẹp niệu
quản chỗ thông nối và rút vào khoảng 10-14
ngày(3,14). Trong nghiên cứu của chúng tôi, các
bệnh nhân khi khâu nối niệu quản vào bàng
quang theo Lich-Grégoir có cải biên về kỹ thuật
may đó là đưa đầu mũi kéo phẫu tích nằm trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 228
vị trí niệu quản nội thành bàng quang sau đó
may thành bàng quang ở phía trên. Chúng tôi
áp dụng kỹ thuật này từ các đồng nghiệp tại
viện trường Liège (Bỉ), với kỹ thuật này tránh
làm chít hẹp đường hầm dưới niêm mạc bàng
quang và cũng không quá rộng để trào ngược
nước tiểu từ bàng quang lên niệu quản ngay cả
18 /35 trường hợp là không đặt sonde JJ cũng
không ghi nhận có chít hẹp chỗ cắm niệu quản
vào bàng quang hay trào ngược bàng quang-
niệu quản. Tuy nhiên cần phải có nghiên cứu số
lượng lớn và theo dõi lâu dài để đánh vấn đề
này.
Vấn đề mổ mở và mổ nội soi ảnh hưởng
đến biến chứng niệu khoa sau ghép
- Việc bảo quản lớp mỡ quanh niệu quản
đóng vai trò rất quan trọng trong khi thực hiện
lấy thận. Lấy thận được thực hiện qua đường
mổ mở là tốt hơn mổ qua đường nội soi và tỷ lệ
xì dò ở nhóm lấy thận qua nội soi là cao hơn
nhóm mổ mở(6). Trong nghiên cứu của chúng tôi
có 6 trường hợp (16,22%) mổ nội soi qua ổ bụng
để lấy thận ghép, cả 6 trư