Khảo sát mối tương quan giữa độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh với các yếu tố nguy cơ vữa xơ mạch máu ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng chuyển hóa

Mục tiêu: Dày nội mạc động mạch cảnh là dấu hiệu cận lâm sàng của xơ vữa động mạch. Hội chứng chuyển hóa thường gặp ở phụ nữ mãn kinh. Hội chứng chuyển hóa là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch. Chúng tôi nghiên cứu mối liên quan giữa dày nội mạc động mạch cảnh với yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng rối loạn chuyển hóa. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 130 phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa. Siêu âm Doppler động mạch cảnh với đầu dò 12 MHz được thực hiện ở tất cả các trường hợp này. Kết quả: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa, cIMT có liên quan đến tuổi (r = 0,190, p<0,05); trong thời kỳ mãn kinh (r = 0,244, p<0,01); huyết áp tâm thu (r = 0,313, p<0,001); huyết áp tâm trương (r = 0,314, p<0,001); vòng bụng (r = 0,394, p<0,001); insulin huyết thanh (r = 0,291, p<0,01); HDL‐C (r = ‐0,312, p<0,001); triglyceride (r = 0,234, p<0,01) hsCRP (r = 0,305, p<0,001). Phân tích hồi quy đa biến, cIMT có mối tương quan với HDL‐C, huyết áp tâm thu, vòng bụng, thời ký mãn kinh, insulin và triglyceride máu. Kết luận: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa cIMT có mối liên quan với nhiều yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối tương quan giữa độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh với các yếu tố nguy cơ vữa xơ mạch máu ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng chuyển hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 74 KHẢO SÁT MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DÀY LỚP NỘI TRUNG MẠC  ĐỘNG MẠCH CẢNH VỚI CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VỮA XƠ MẠCH MÁU  Ở PHỤ NỮ MÃN KINH MẮC HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA  Trần Đình Đạt*, Trần Nam Việt Hưng**  TÓM TẮT  Mục  tiêu: Dày nội mạc  động mạch cảnh  là dấu hiệu  cận  lâm  sàng  của xơ vữa  động mạch. Hội  chứng  chuyển hóa thường gặp ở phụ nữ mãn kinh. Hội chứng chuyển hóa là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch.  Chúng tôi nghiên cứu mối liên quan giữa dày nội mạc động mạch cảnh với yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở  phụ nữ mãn kinh có hội chứng rối loạn chuyển hóa.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 130 phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa.  Siêu âm Doppler động mạch cảnh với đầu dò 12 MHz được thực hiện ở tất cả các trường hợp này.  Kết quả: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa, cIMT có  liên quan đến tuổi (r = 0,190, p<0,05);  trong thời kỳ mãn kinh (r = 0,244, p<0,01); huyết áp tâm thu (r = 0,313, p<0,001); huyết áp tâm trương (r =  0,314, p<0,001); vòng bụng (r = 0,394, p<0,001); insulin huyết thanh (r = 0,291, p<0,01); HDL‐C (r = ‐0,312,  p<0,001); triglyceride (r = 0,234, p<0,01) hsCRP (r = 0,305, p<0,001). Phân tích hồi quy đa biến, cIMT có mối  tương quan với HDL‐C, huyết áp tâm thu, vòng bụng, thời ký mãn kinh, insulin và triglyceride máu.  Kết luận: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa cIMT có mối liên quan với nhiều yếu tố nguy cơ xơ  vữa động mạch.   Keywords: dày nội mạc động mạch cảnh, phụ nữ mãn kinh, hội chứng chuyển hóa  ABSTRACT  CORRELATION BETWEEN CAROTID ARTERIAL INTIMA‐MEDIA THICKNESS WITH  ATHEROSCLEROTIC RISK FACTORS IN POSTMENOPAUSAL WOMEN   WITH METABOLIC SYNDROME  Tran Dinh Dat, Tran Nam Viet Hung  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 74 ‐ 79  Background: Carotid arterial intima‐media thickness (cIMT) has been a subclinical artherosclerotic marker.  Metabolic syndrome is common in postmenopausal women. Metabolic syndrome have been an atherosclerotic risk  factor. We aim to study the correlation between cIMT with atherosclerotic risk factors in postmenopausal women  with metabolic syndrome (MS).  Subjects and method: A cross‐sectional analysis was conducted among 130 postmenopausal women with  MS. Carotid arterial Doppler ultrasound with a 12 MHz transduce were performed in all subjects.  Results: In postmenopausal women with MS, the cIMT correlated with aged (r = 0.190, p<0.05); during of  postmenopause  (r = 0.244, p<0.01);  systolic blood pressure  (r = 0.313, p<0.001); diastolic blood pressure  (r =  0.314, p<0.001); waist circumstance  (r = 0.394, p<0.001); plasmal  insulin  levels  (r = 0.291, p<0.01); HDL‐C  levels  (r  =  ‐0.312,  p<0.001);  triglyceride  levels  (r  =  0.234,  p<0.01)  and  hsCRP  levels  (r  =  0.305,  p<0.001).  Multivariate regression analysis, the cIMT correlated with HDL‐C, systolic blood pressure, waist circumstance,  * Trường CĐYT Bình Định, ** Bệnh viện đa khoa Bình Định Tác giả liên lạc: TSBS Trần Đình Đạt,   ĐT: 0913475969,   Email: dinhdat.tran@gmail.com   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  75 during of postmenopause, plasmal insulin levels and triglyceride levels.  Conclusion:  In  postmenopausal  women  with  metabolic  syndrome  the  cIMT  correlated  with  many  atherosclerotic risk factors.  Key words: Carotid arterial intima‐media thickness, postmenopausal women, metabolic syndrome  ĐẶT VẤN ĐỀ  Hội chứng chuyển hóa (HCCH) là một trong  những vấn đề về sức khỏe cộng đồng được quan  tâm nhất trong thiên niên kỷ này. Theo hiệp hội  đái tháo đường quốc tế (IDF) HCCH là tập hợp  những yếu tố nguy cơ của hai đại dịch lớn đó là  bệnh  tim mạch và  đái  tháo  đường  týp 2  (ĐTĐ  týp 2) ảnh hưởng  lớn đến chất  lượng sống của  con người và  làm  tiêu  tốn một  lượng  lớn ngân  sách y  tế  của nhiều nước  trên  thế giới. Một  số  nghiên cứu gần đây ghi nhận có tỉ lệ tăng đáng  kể HCCH ở phụ nữ mãn kinh (PNMK)(2,5,7). Tại  Việt nam,  tuy  chưa  có  số  liệu  thống kê  cụ  thể  nhưng  chắc  chắn  số  người mắc  HCCH  đang  tăng lên.  Số PNMK chết do bệnh tim mạch cao gấp 10  lần ung  thư vú(6).  Điều này  cũng phù hợp  với  thực tế: bệnh mạch vành và mạch não rất ít gặp  ở phụ nữ  trước  thời mãn kinh, nhưng khi  đến  tuổi mãn  kinh,  tỉ  lệ  các  bệnh  này  ở  nữ  ngang  bằng với nam giới. Mặc dù tỉ lệ tử vong do bệnh  tim mạch hiện đang giảm, bệnh lý tim mạch và  chi phí điều trị đang gia tăng. Các biện pháp can  thiệp nhằm giảm các yếu tố nguy cơ của bệnh lý  tim mạch  ở PNMK  sẽ mang  lại  lợi  ích  lớn  cho  sức khoẻ cộng đồng.  Siêu âm với đầu dò  ≥ 7,5 MHz có  thể nhìn  thấy và đo được các  lớp của  thành động mạch  và bề dày của mảng vữa xơ (MVX), vì vậy có thể  phát hiện sớm các tổn thương thành mạch. Điều  này có ý nghĩa rất quan trọng với các thầy thuốc  lâm  sàng  trong việc nghiên  cứu mối  liên quan  giữa vữa xơ động mạch với các yếu tố nguy cơ  mạch  máu  (YTNCMM)  nhằm  đề  ra  các  biện  pháp dự phòng, điều trị tích cực làm giảm hoặc  mất các yếu tố nguy cơ để góp phần làm giảm tỉ  lệ mắc bệnh tim mạch.  Từ  thực  tế  trên  chúng  tôi  thực  hiện  đề  tài  này với mục tiêu:  Khảo  sát mối  tương quan giữa  độ dày  lớp  nội  trung mạc động mạch cảnh chung với một  số  yếu  tố  nguy  cơ mạch máu  gồm:  tuổi,  tuổi  mãn kinh,  thời gian mãn kinh, huyết áp, vòng  bụng,  lipid máu,  glucose máu, hsCRP,  insulin,  estrogen, và testosteron.  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối  tượng,  địa  điểm  và  thời  gian nghiên  cứu  Gồm 130 PNMK mắc HCCH được sàng  lọc  từ các PNMK đến khám sức khỏe tại Bệnh viện  viện  đa khoa  tỉnh Bình  Định  từ  tháng  04 năm  2011 đến tháng 09 năm 2011.  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu mô tả cắt ngang.  Tiêu chuẩn chọn mẫu nghiên cứu  Đánh giá mãn kinh  Phụ nữ  lớn hơn 45  tuổi, đã dừng kinh  liên  tục kéo dài quá 12 tháng.  Tiêu chuẩn đánh giá HCCH  Theo  IDF  (2006)(4):  vòng  bụng  (VB)  ≥  80cm  phối  hợp  với  2  trong  4  thành  tố:  HA  ≥  130/85mmHg  (hay  đã  điều  trị  tăng  huyết  áp  trước  đó);  glucose  huyết  tương  ≥  5,6mmol/L  (hay đái  tháo đường  týp 2  đã  được chẩn  đoán  trước đó); triglycerid (TG) ≥ 1,7mmol/L và HDL‐ C < 1,29mmol/L (hay được điều trị đặc hiệu cho  2 loại rối loạn lipid này).  Tiêu chuẩn loại trừ  ‐  Không  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu,  bị  nhiễm  trùng  kèm  theo; một  số  bệnh  rối  loạn  phân bố mỡ; bị suy thận chức năng hay thực thể,  suy gan.  ‐ Sử dụng thuốc làm thay đổi tính nhạy cảm  của insulin hoặc gây tăng glucose máu.  ‐ Mắc các bệnh nội  tiết  làm ảnh hưởng đến  chuyển hoá glucose như bệnh  to cực, Cushing,  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 76 cường  giáp,  tiền  sử  phẫu  thuật  cắt  tử  cung,  buồng trứng.  Các  tiêu  chuẩn  lâm  sàng và  cận  lâm  sàng  trong nghiên cứu  Lâm sàng  ‐  Chẩn  đoán  béo  phì  trung  tâm  theo  tiêu  chuẩn của IDF (2006)(4).  ‐ Chẩn đoán tăng huyết áp: Theo khuyến cáo  của Phân hội tăng huyết áp Việt Nam 2008(3).  Cận lâm sàng  ‐  Định  lượng  cholesterol  toàn  phần  (CT),  triglycerid  (TG),  lipoprotein  có  tỷ  trọng  cao  (HDL‐ C), lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL‐ C)  theo phương pháp  so màu dùng  enzyme,  trên  máy  sinh  hóa  tự  động  AU  400.  Hóa  chất  sử  dụng bộ kít chế sẵn của hãng Beckman Coulter  (Đức). Đơn vị tính mmol/L.  ‐ Định lượng Estradiol, Testosterone, Insulin  theo  phương  pháp  điện  hóa  phát  quang miễn  dịch  (electrochemiluminescence  immunoassay)  trên máy miễn  dịch  tự  động Cobas  e  411  của  hãng Hitachi.  ‐  Định  lượng  hsCRP  theo  phương  pháp  miễn dịch đo độ đục  (Turbidimetric),  trên máy  phân  tích  sinh  hóa  tự  động AU  400  của  hãng  Olympus.  Siêu âm động mạch cảnh  ‐  Phương  tiện:  máy  siêu  âm  Siemen  Acuson X500, đầu dò Linear 12 MHz, chương  trình  thực hiện  là  siêu  âm kiểu B và  siêu  âm  Doppler mạch máu.  ‐ Độ dày lớp nội trung mạc (IMT) được xác  định là trung bình IMT của cả đoạn, bắt đầu từ  vị  trí  cách  chỗ  chia  đôi  của  động mạch  cảnh  chung  (ĐMCC)  10mm  trở  về  phía  xa  của  chỗ  chia  đôi.  Thực  hiện  tính  IMT  trên  phần mềm  phát hiện bờ cài đặt sẵn trên máy(8).  ‐ Đánh giá IMT theo hướng dẫn của hội tăng  huyết áp Châu Âu / Hội tim mạch Châu Âu năm  2003(1):  IMT  <  0,9  mm:  bình  thường;  IMT  ≥  0,9mm: tăng IMT.  Xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 16.0.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.  Tương quan hồi quy  đơn biến  giữa  IMT  với các yếu tố nguy cơ mạch máu  Bảng 1: Tương quan hồi quy đơn biến giữa IMT  ĐMCC với các YTNCMM  IMT Các chỉ tiêu IMT ĐMCC (n = 130) r p Tuổi (năm) 0,190 < 0,05 Tuổi mãn kinh (năm) -0,142 >0,05 Thời gian mãn kinh (năm) 0,244 < 0,01 Huyết áp tâm thu (mmHg) 0,313 < 0,001 Huyết áp tâm trương (mmHg) 0,314 < 0,001 BMI (kg/m2) 0,094 > 0,05 Vòng bụng (cm) 0,394 < 0,001 Estradiol (pg/ml) - 0,162 > 0,05 Testosterone (ng/ml) - 0,086 > 0,05 Insulin (µUI/ml) 0,291 < 0,01 Glucose (mmol/L) 0,119 > 0,05 Cholesterol toàn phần (mmol/L) 0,087 > 0,05 HDL-C (mmol/L) - 0,312 < 0,001 Triglycerid (mmol/L) 0,234 < 0,01 LDL-C (mmol/L) 0,119 > 0,05 hsCRP (mg/L) 0,305 < 0,001 IMT  động mạch  cảnh  chung  tương  quan  thuận  với  tuổi;  thời  gian mãn  kinh  (TGMK);  huyết  áp  tâm  thu  (HATT);  huyết  áp  tâm  trương  (HATTr);  vòng  bụng  (VB);  Insulin;  Triglycerid (TG); hsCRP và tương quan nghịch  với HDL‐C. IMT ĐMCC không có tương quan  với  tuổi  mãn  kinh  (TMK),  BMI,  estradiol,  testosterone, glucose máu  lúc đói, Cholesterol  toàn phần (CT) và LDL‐C.  Tương quan hồi quy đa biến giữa IMT với  các yếu tố nguy cơ mạch máu  Bảng 2: Tương quan hồi quy đa biến giữa IMT  ĐMCC với các YTNCMM  B β t p (Constant) -0,266 TGMK (năm) 0,005 0,182 2,555 < 0,05 HATT (mmHg) 0,002 0,216 2,938 < 0,01 VB (cm) 0,005 0,197 2,198 < 0,05 Insulin µU/ml 0,003 0,175 2,208 < 0,05 HDL (mmol/L) -0,117 -0,237 -3,237 < 0,01 TG (mmol/L) 0,013 0,148 1,993 < 0,05 Qua khảo sát tương quan hồi quy đơn biến,  xác định yếu tố nào có tương quan với IMT, tiến  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  77 hành khảo sát tương quan hồi quy đa biến giữa  IMT  với  các  yếu  tố  này,  chúng  tôi  nhận  thấy  IMT chỉ tương quan có ý nghĩa thống kê với một  số yếu tố nguy cơ: tương quan nghịch với nồng  độ HDL‐C, và tương quan thuận với HATT, VB,  TGMK, nồng độ insulin máu lúc đói và TG.  Từ giá trị tuyệt đối của hệ số β, xét các yếu tố  nguy cơ có mức ảnh hưởng làm tăng IMT nhiều  nhất theo thứ tự là: giảm nồng độ HDL‐C, tăng  huyết  áp  tâm  thu,  tăng  vòng  bụng,  tăng  thời  gian mãn  kinh,  tăng  nồng  độ  Insulin máu  lúc  đói và tăng TG.  Phương  trình  tương  quan  hồi  quy  đa  biến  giữa IMT với các yếu tố nguy cơ mạch máu trên  được biểu diễn như sau: y = 0,005 x  (TGMK) +  0,002 x (HATT) + 0,005 x (VB) + 0,003 x (Insulin)  – 0,117 x (HDL‐C) + 0,013 x (TG) – 0,266.   BÀN LUẬN    Tăng độ dày độ dày lớp nội trung mạc (tăng  IMT) là cơ sở để hình thành và phát triển mảng  vữa xơ động mạch, tăng IMT làm tăng nguy cơ  mắc phải bệnh tim mạch và đột quỵ. Qua khảo  sát mối  tương  quan  giữa  IMT  với  các  yếu  tố  nguy cơ mạch máu của 130 PNMK mắc HCCH  chúng tôi có một số nhận xét như sau:  Tương quan giữa IMT với tuổi và thời gian  mãn kinh.  PNMK có  tuổi đời cao cũng đồng nghĩa có  khoảng  TGMK  dài,  qua  kết  quả  nghiên  cứu  chúng  tôi ghi nhận  có  tương  quan  thuận  giữa  IMT  với  cả  tuổi  và  TGMK.  Xét  mức  độ  ảnh  hưởng trên tương quan hồi quy đa biến thì mức  độ ảnh hưởng của TGMK có ý nghĩa thống kê.  Baroncini  (2008) phân  tích  trên  555 người  có  tuổi  đời  67,6  ±  11,7  năm, Halenka  (2010)  nghiên  cứu  trên  82  người  có  tuổi  đời  trung  bình  62  tuổi,  Nguyễn  Hải  Thủy  nghiên  cứu  trên 243 người,  có  tuổi  đời  trên 70  là 58,85%.  Tất cả các nghiên trên đều cho rằng IMT tăng  về tỉ lệ và độ dày theo tuổi.  Meyer và cộng  sự  (2009) cho  rằng  sự  thiếu  hụt estrogen trầm trọng, kéo dài ở phụ nữ mãn  kinh làm xuất hiện hiện tượng methyl hóa AND  tại  vùng  hoạt  hóa  (promoter)  của  các  thụ  thể  estrogen  α  và  β  (estrogen  receptor  α,  estrogen  receptor β), do đó làm thay đổi cấu trúc của thụ  thể  estrogen dẫn  đến mất  chức năng  đáp  ứng  đối với tác động của estrogen và làm tăng nguy  cơ gây VXĐM ở PNMK.   Độ dày  lớp nội  trung mạc động mạch cảnh  chung  ở  phụ  nữ  mãn  kinh  mắc  hội  chứng  chuyển hóa  tăng  theo  tuổi và TGMK.Trong  đó  mức  độ  ảnh  hưởng  của  TGMK  làm  tăng  IMT  nhiều hơn tuổi và có ý nghĩa thống kê.  Tương  quan  giữa  IMT  với  VB,  BMI,  HATT, HATTr  Zivkovic (2010) cho rằng phụ nữ thường tích  tụ mỡ trong ổ bụng nhiều hơn khi họ đi qua thời  kỳ mãn kinh. Tăng  tích  tụ mỡ  ở bụng  thường  gặp nhất ở PNMK mắc HCCH. Yu (2009) nghiên  cứu trên 518 phụ nữ mãn kinh có tuổi đời từ 50  đến  64,  kết  luận:  vòng  bụng  có  liên  quan  đến  IMT ĐMCC. Tăng vòng bụng  làm tăng IMT và  tăng tỉ lệ có MVX. Chien (2008) nghiên cứu trên  2190  người  Trung  Quốc,  không  có  bệnh  tim  mạch,  theo dõi  trong 10,5 năm, ghi nhận: vòng  bụng có liên quan với IMT, tăng vòng bụng làm  tăng IMT và tăng nguy cơ đột quỵ.  Qua khảo sát siêu âm động cảnh 130 PNMK  mắc HCCH chúng tôi cũng nhận thấy có tương  quan thuận giữa IMT với VB   Tăng vòng bụng  ở PNMK mắc HCCH  làm  tăng  độ  dày  lớp  nội  trung mạc,  tăng  nguy  cơ  mắc phải bệnh tim mạch và đột quỵ.  Trái ngược với VB, chúng tôi không thấy có  tương quan giữa IMT với BMI.  Montalcini  (2007)  nghiên  cứu  trên  313  PNMK,  với mục  tiêu  là  xem  xét  PNMK mắc  HCCH và PNMK từ thừa cân đến béo phì theo  BMI, có liên quan gì đến tình trạng vữa xơ động  mạch  cảnh,  kết  luận:  tăng  IMT  ĐMCC  có  liên  quan đến HCCH, còn tăng BMI từ thừa cân đến  béo phì  thì không.  Johnson  (2010), nghiên  cứu  trên 203 phụ nữ có  tuổi  từ 45 đến 60, với mục  tiêu đánh giá  IMT  tiến  triển  theo  thời gian, ghi  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 78 nhận: IMT tăng dần theo thời gian nhưng không  liên quan đến BMI.   Nghiên  cứu  của  Montalcini,  Johnson  và  chúng  tôi  phù  hợp,  có  thể  BMI  không  có  liên  quan với IMT ĐMCC ở PNMK mắc HCCH.  Về huyết áp, khảo  sát  trên  tương quan hồi  quy  đơn  biến,  có  tương  quan  thuận  giữa  IMT  với HATT và HATTr. Trên tương quan hồi quy  đa biến chỉ HATT có ảnh hưởng  làm  tăng IMT  có ý nghĩa thống kê.  Salvatore  (2010),  khảo  sát  trên  399  phụ  nữ  mãn kinh và 564 phụ nữ tiền mãn kinh, kết luận:  ở phụ nữ mãn kinh có  tăng huyết áp  làm  tăng  nguy cơ vữa xơ động mạch cảnh.  Nghiên cứu của chúng  tôi và của Salvatore  cho  thấy  IMT  có  tương  quan  thuận  với  số  đo  huyết áp,  tăng huyết áp  làm  tăng  IMT và  tăng  nguy  cơ  hình  thành,  phát  triển mảng  vữa  xơ  động mạch cảnh.  Trong đó tăng HATT có mức độ ảnh hưởng  làm tăng IMT trên tương quan hồi quy đa biến  có ý nghĩa thống kê.  Tương quan giữa IMT với bilan lipid  Qua khỏa sát tương quan hồi quy đơn và đa  biến  giữa  IMT  với  TG,  HDL‐C,  CT,  LDL‐C  chúng  tôi  nhận  thấy  IMT  chỉ  có  tương  quan  thuận với TG và nghịch với HDL‐C, không  có  tương quan với CT, LDL‐C.  Baroncini  (2008) phân  tích  trên  555 người  (có 377 nữ,  tuổi  trung bình  67,06  ±  12,44) kết  luận: không có sự khác biệt đáng kể giữa tình  trạng  tổn  thương do vữa xơ động mạch cảnh  với  rối  loạn  lipid  máu.  Nguyễn  Hải  Thủy  nghiên cứu 243 bệnh nhân  trên 60  tuổi  (có 98  nữ)  cũng  cho  rằng:  không  thấy  có  liên  quan  giữa  tổn  thương  vữa  xơ  động  mạch  cảnh  chung với bilan lipid máu.  IMT có tương quan thuận với TG và nghịch  với  HDL‐C  có  thể  là  một  đặc  điểm  riêng  ở  PNMK mắc  HCCH.  Trong  đó  giảm  nồng  độ  HDL‐C  có mức  độ  ảnh  hưởng  làm  tăng  IMT  nhiều nhất so với các yếu tố nguy cơ khác.  Tương quan giữa IMT với insulin, hsCRP,  estradiol, testosteron, glucose  Trong khảo sát tương quan hồi quy đơn biến  chúng tôi ghi nhận IMT có tương quan thuậnvới  insulin và hsCRP, nhưng mức độ ảnh hưởng của  insulin  lên IMT nhiều hơn và có ý nghĩa  thống  kê (p < 0,05) trên tương quan hồi quy đa biến.  Park S.W và cộng sự (2009) khảo sát siêu âm  động mạch cảnh  trên 2471 bệnh nhân  đái  tháo  đường  týp 2, có kháng  insulin. Kết  luận kháng  insulin  làm  tăng  nguy  cơ  vữa  xơ  động mạch  cảnh. Ahmad  J  (2007)  khảo  sát  siêu  âm  động  mạch cảnh  trên 80 người đái  tháo đường  týp 2  so  sánh  với  81  người  khỏe mạnh  và  các  yếu  nguy cơ gây vữa xơ động mạch, kết  luận:  IMT  liên quan đáng kể với insulin lúc đói (p < 0,01).  Cao JJ nghiên cứu trên 5417 người không có  bệnh tim mạch và đột quỵ trước đó, có tuổi đời  lớn hơn 65 tuổi, theo dõi trong 10,2 năm có 469  người  bị  đột  quỵ,  Phân  tích  tương  quan  giữa  IMT với nồng độ CRP trên những người bị đột  quỵ, Cao kết luận: tăng CRP là tăng yếu tố nguy  cơ đột quỵ, có liên quan với IMT ( p < 0,02).  Tăng  insulin,  tăng  hsCRP  làm  tăng  IMT  ĐMCC ở PNMK mắc HCCH. Tăng  insulin có  mức  độ  ảnh hưởng  làm  tăng  IMT nhiều hơn  hsCRP.  Glucose  ≥  5,6mmol/L  là một  thành  tố  của  HCCH, nhưng  trong nghiên cứu của chúng  tôi  không  thấy  có  tương quan giữa  IMT với nồng  độ glucose huyết tương.  Brohall (2009) nghiên cứu trên 393 phụ nữ có  độ  tuổi  trung bình 64, so sánh IMT ĐMCC của  205 người có giảm dung nạp glucose với 188 có  dung  nạp  glucose  bình  thường,  kết  luận:  IMT  ĐMCC không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Yu  (2009) nghiên cứu trên 518 PNMK, có tuổi đời 64  tuổi, khảo sát các yếu tố nguy cơ gây tổn thương  vữa xơ động mạch cảnh, kết  luận:  đường máu  lúc đói ít có liên quan với IMT.  Tương  tự  chúng  tôi  cũng  không  thấy  có  tương  quan  giữa  IMT  với  Estradiol  và  testosteron.  Có  thể  nồng  độ  estradiol  và  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  79 testosteron dao động rất  lớn trên mỗi cá  thể và  chúng  tôi  chưa  có phương  tiện  để  định  lượng  nồng  độ  estradiol  nội  sinh  và  testosteron  sinh  khả  dụng  (Bioavailable  testosterone)  nên  đánh  giá về mối  liên quan này  chưa  thật  đầy  đủ và  chính xác. Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tiếp tục  nghiên cứu thêm.  KẾT LUẬN  Độ dày  lớp nội  trung mạc động mạch cảnh  chung  ở  phụ  nữ  mãn  kinh  mắc  hội  chứng  chuyển hóa có  tương quan  thuận với  tuổi,  thời  gian mãn  kinh,  vòng  bụng, huyết  áp  tâm  thu,  huyết áp tâm trương, triglycerid, insulin, hsCRP  và  tương  quan  nghịch  với  lipoprotein  tỉ  trọng  cao. Trong  đó  các yếu  tố nguy  cơ  có mức  ảnh  hưởng làm tăng IMT nhiều nhất theo thứ tự là:  giảm nồng  độ HDL‐C,  tăng huyết áp  tâm  thu,  tăng vòng bụng,  tăng  thời gian mãn kinh,  tăng  nồng độ Insulin máu lúc đói và tăng TG.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. European  sociaty  of  cardiology  (2003),  Guidelines  for  the  management of arteriel hypertension,  Journal of hypertension;  21: 1011‐ 1053  2. Heidari R, et al (2010). “Metabolic syndrome  in menopausal  transition:  Isfahan  Healthy  Heart  Program,  a  population  based study”, Diabetology & Metabolic syndrome, 2, pp. 59.  3. Huỳnh Văn Minh (2008), “Cập nhật khuyến cáo chẩn đoán và  điều trị tăng huyết áp người lớn”, www.huemed‐univ.edu.vn.   4. International Diabetes Federation  (
Tài liệu liên quan