Mục tiêu: Dày nội mạc động mạch cảnh là dấu hiệu cận lâm sàng của xơ vữa động mạch. Hội chứng
chuyển hóa thường gặp ở phụ nữ mãn kinh. Hội chứng chuyển hóa là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch.
Chúng tôi nghiên cứu mối liên quan giữa dày nội mạc động mạch cảnh với yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở
phụ nữ mãn kinh có hội chứng rối loạn chuyển hóa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 130 phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa.
Siêu âm Doppler động mạch cảnh với đầu dò 12 MHz được thực hiện ở tất cả các trường hợp này.
Kết quả: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa, cIMT có liên quan đến tuổi (r = 0,190, p<0,05);
trong thời kỳ mãn kinh (r = 0,244, p<0,01); huyết áp tâm thu (r = 0,313, p<0,001); huyết áp tâm trương (r =
0,314, p<0,001); vòng bụng (r = 0,394, p<0,001); insulin huyết thanh (r = 0,291, p<0,01); HDL‐C (r = ‐0,312,
p<0,001); triglyceride (r = 0,234, p<0,01) hsCRP (r = 0,305, p<0,001). Phân tích hồi quy đa biến, cIMT có mối
tương quan với HDL‐C, huyết áp tâm thu, vòng bụng, thời ký mãn kinh, insulin và triglyceride máu.
Kết luận: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa cIMT có mối liên quan với nhiều yếu tố nguy cơ xơ
vữa động mạch.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối tương quan giữa độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh với các yếu tố nguy cơ vữa xơ mạch máu ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng chuyển hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 74
KHẢO SÁT MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DÀY LỚP NỘI TRUNG MẠC
ĐỘNG MẠCH CẢNH VỚI CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VỮA XƠ MẠCH MÁU
Ở PHỤ NỮ MÃN KINH MẮC HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA
Trần Đình Đạt*, Trần Nam Việt Hưng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Dày nội mạc động mạch cảnh là dấu hiệu cận lâm sàng của xơ vữa động mạch. Hội chứng
chuyển hóa thường gặp ở phụ nữ mãn kinh. Hội chứng chuyển hóa là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch.
Chúng tôi nghiên cứu mối liên quan giữa dày nội mạc động mạch cảnh với yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở
phụ nữ mãn kinh có hội chứng rối loạn chuyển hóa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 130 phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa.
Siêu âm Doppler động mạch cảnh với đầu dò 12 MHz được thực hiện ở tất cả các trường hợp này.
Kết quả: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa, cIMT có liên quan đến tuổi (r = 0,190, p<0,05);
trong thời kỳ mãn kinh (r = 0,244, p<0,01); huyết áp tâm thu (r = 0,313, p<0,001); huyết áp tâm trương (r =
0,314, p<0,001); vòng bụng (r = 0,394, p<0,001); insulin huyết thanh (r = 0,291, p<0,01); HDL‐C (r = ‐0,312,
p<0,001); triglyceride (r = 0,234, p<0,01) hsCRP (r = 0,305, p<0,001). Phân tích hồi quy đa biến, cIMT có mối
tương quan với HDL‐C, huyết áp tâm thu, vòng bụng, thời ký mãn kinh, insulin và triglyceride máu.
Kết luận: ở phụ nữ mãn kinh có hội chứng chuyển hóa cIMT có mối liên quan với nhiều yếu tố nguy cơ xơ
vữa động mạch.
Keywords: dày nội mạc động mạch cảnh, phụ nữ mãn kinh, hội chứng chuyển hóa
ABSTRACT
CORRELATION BETWEEN CAROTID ARTERIAL INTIMA‐MEDIA THICKNESS WITH
ATHEROSCLEROTIC RISK FACTORS IN POSTMENOPAUSAL WOMEN
WITH METABOLIC SYNDROME
Tran Dinh Dat, Tran Nam Viet Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 74 ‐ 79
Background: Carotid arterial intima‐media thickness (cIMT) has been a subclinical artherosclerotic marker.
Metabolic syndrome is common in postmenopausal women. Metabolic syndrome have been an atherosclerotic risk
factor. We aim to study the correlation between cIMT with atherosclerotic risk factors in postmenopausal women
with metabolic syndrome (MS).
Subjects and method: A cross‐sectional analysis was conducted among 130 postmenopausal women with
MS. Carotid arterial Doppler ultrasound with a 12 MHz transduce were performed in all subjects.
Results: In postmenopausal women with MS, the cIMT correlated with aged (r = 0.190, p<0.05); during of
postmenopause (r = 0.244, p<0.01); systolic blood pressure (r = 0.313, p<0.001); diastolic blood pressure (r =
0.314, p<0.001); waist circumstance (r = 0.394, p<0.001); plasmal insulin levels (r = 0.291, p<0.01); HDL‐C
levels (r = ‐0.312, p<0.001); triglyceride levels (r = 0.234, p<0.01) and hsCRP levels (r = 0.305, p<0.001).
Multivariate regression analysis, the cIMT correlated with HDL‐C, systolic blood pressure, waist circumstance,
* Trường CĐYT Bình Định, ** Bệnh viện đa khoa Bình Định
Tác giả liên lạc: TSBS Trần Đình Đạt, ĐT: 0913475969, Email: dinhdat.tran@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 75
during of postmenopause, plasmal insulin levels and triglyceride levels.
Conclusion: In postmenopausal women with metabolic syndrome the cIMT correlated with many
atherosclerotic risk factors.
Key words: Carotid arterial intima‐media thickness, postmenopausal women, metabolic syndrome
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng chuyển hóa (HCCH) là một trong
những vấn đề về sức khỏe cộng đồng được quan
tâm nhất trong thiên niên kỷ này. Theo hiệp hội
đái tháo đường quốc tế (IDF) HCCH là tập hợp
những yếu tố nguy cơ của hai đại dịch lớn đó là
bệnh tim mạch và đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ
týp 2) ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống của
con người và làm tiêu tốn một lượng lớn ngân
sách y tế của nhiều nước trên thế giới. Một số
nghiên cứu gần đây ghi nhận có tỉ lệ tăng đáng
kể HCCH ở phụ nữ mãn kinh (PNMK)(2,5,7). Tại
Việt nam, tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể
nhưng chắc chắn số người mắc HCCH đang
tăng lên.
Số PNMK chết do bệnh tim mạch cao gấp 10
lần ung thư vú(6). Điều này cũng phù hợp với
thực tế: bệnh mạch vành và mạch não rất ít gặp
ở phụ nữ trước thời mãn kinh, nhưng khi đến
tuổi mãn kinh, tỉ lệ các bệnh này ở nữ ngang
bằng với nam giới. Mặc dù tỉ lệ tử vong do bệnh
tim mạch hiện đang giảm, bệnh lý tim mạch và
chi phí điều trị đang gia tăng. Các biện pháp can
thiệp nhằm giảm các yếu tố nguy cơ của bệnh lý
tim mạch ở PNMK sẽ mang lại lợi ích lớn cho
sức khoẻ cộng đồng.
Siêu âm với đầu dò ≥ 7,5 MHz có thể nhìn
thấy và đo được các lớp của thành động mạch
và bề dày của mảng vữa xơ (MVX), vì vậy có thể
phát hiện sớm các tổn thương thành mạch. Điều
này có ý nghĩa rất quan trọng với các thầy thuốc
lâm sàng trong việc nghiên cứu mối liên quan
giữa vữa xơ động mạch với các yếu tố nguy cơ
mạch máu (YTNCMM) nhằm đề ra các biện
pháp dự phòng, điều trị tích cực làm giảm hoặc
mất các yếu tố nguy cơ để góp phần làm giảm tỉ
lệ mắc bệnh tim mạch.
Từ thực tế trên chúng tôi thực hiện đề tài
này với mục tiêu:
Khảo sát mối tương quan giữa độ dày lớp
nội trung mạc động mạch cảnh chung với một
số yếu tố nguy cơ mạch máu gồm: tuổi, tuổi
mãn kinh, thời gian mãn kinh, huyết áp, vòng
bụng, lipid máu, glucose máu, hsCRP, insulin,
estrogen, và testosteron.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên
cứu
Gồm 130 PNMK mắc HCCH được sàng lọc
từ các PNMK đến khám sức khỏe tại Bệnh viện
viện đa khoa tỉnh Bình Định từ tháng 04 năm
2011 đến tháng 09 năm 2011.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Tiêu chuẩn chọn mẫu nghiên cứu
Đánh giá mãn kinh
Phụ nữ lớn hơn 45 tuổi, đã dừng kinh liên
tục kéo dài quá 12 tháng.
Tiêu chuẩn đánh giá HCCH
Theo IDF (2006)(4): vòng bụng (VB) ≥ 80cm
phối hợp với 2 trong 4 thành tố: HA ≥
130/85mmHg (hay đã điều trị tăng huyết áp
trước đó); glucose huyết tương ≥ 5,6mmol/L
(hay đái tháo đường týp 2 đã được chẩn đoán
trước đó); triglycerid (TG) ≥ 1,7mmol/L và HDL‐
C < 1,29mmol/L (hay được điều trị đặc hiệu cho
2 loại rối loạn lipid này).
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Không đồng ý tham gia nghiên cứu, bị
nhiễm trùng kèm theo; một số bệnh rối loạn
phân bố mỡ; bị suy thận chức năng hay thực thể,
suy gan.
‐ Sử dụng thuốc làm thay đổi tính nhạy cảm
của insulin hoặc gây tăng glucose máu.
‐ Mắc các bệnh nội tiết làm ảnh hưởng đến
chuyển hoá glucose như bệnh to cực, Cushing,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 76
cường giáp, tiền sử phẫu thuật cắt tử cung,
buồng trứng.
Các tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng
trong nghiên cứu
Lâm sàng
‐ Chẩn đoán béo phì trung tâm theo tiêu
chuẩn của IDF (2006)(4).
‐ Chẩn đoán tăng huyết áp: Theo khuyến cáo
của Phân hội tăng huyết áp Việt Nam 2008(3).
Cận lâm sàng
‐ Định lượng cholesterol toàn phần (CT),
triglycerid (TG), lipoprotein có tỷ trọng cao
(HDL‐ C), lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL‐ C)
theo phương pháp so màu dùng enzyme, trên
máy sinh hóa tự động AU 400. Hóa chất sử
dụng bộ kít chế sẵn của hãng Beckman Coulter
(Đức). Đơn vị tính mmol/L.
‐ Định lượng Estradiol, Testosterone, Insulin
theo phương pháp điện hóa phát quang miễn
dịch (electrochemiluminescence immunoassay)
trên máy miễn dịch tự động Cobas e 411 của
hãng Hitachi.
‐ Định lượng hsCRP theo phương pháp
miễn dịch đo độ đục (Turbidimetric), trên máy
phân tích sinh hóa tự động AU 400 của hãng
Olympus.
Siêu âm động mạch cảnh
‐ Phương tiện: máy siêu âm Siemen
Acuson X500, đầu dò Linear 12 MHz, chương
trình thực hiện là siêu âm kiểu B và siêu âm
Doppler mạch máu.
‐ Độ dày lớp nội trung mạc (IMT) được xác
định là trung bình IMT của cả đoạn, bắt đầu từ
vị trí cách chỗ chia đôi của động mạch cảnh
chung (ĐMCC) 10mm trở về phía xa của chỗ
chia đôi. Thực hiện tính IMT trên phần mềm
phát hiện bờ cài đặt sẵn trên máy(8).
‐ Đánh giá IMT theo hướng dẫn của hội tăng
huyết áp Châu Âu / Hội tim mạch Châu Âu năm
2003(1): IMT < 0,9 mm: bình thường; IMT ≥
0,9mm: tăng IMT.
Xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Tương quan hồi quy đơn biến giữa IMT
với các yếu tố nguy cơ mạch máu
Bảng 1: Tương quan hồi quy đơn biến giữa IMT
ĐMCC với các YTNCMM
IMT
Các chỉ tiêu
IMT ĐMCC (n = 130)
r p
Tuổi (năm) 0,190 < 0,05
Tuổi mãn kinh (năm) -0,142 >0,05
Thời gian mãn kinh (năm) 0,244 < 0,01
Huyết áp tâm thu (mmHg) 0,313 < 0,001
Huyết áp tâm trương (mmHg) 0,314 < 0,001
BMI (kg/m2) 0,094 > 0,05
Vòng bụng (cm) 0,394 < 0,001
Estradiol (pg/ml) - 0,162 > 0,05
Testosterone (ng/ml) - 0,086 > 0,05
Insulin (µUI/ml) 0,291 < 0,01
Glucose (mmol/L) 0,119 > 0,05
Cholesterol toàn phần (mmol/L) 0,087 > 0,05
HDL-C (mmol/L) - 0,312 < 0,001
Triglycerid (mmol/L) 0,234 < 0,01
LDL-C (mmol/L) 0,119 > 0,05
hsCRP (mg/L) 0,305 < 0,001
IMT động mạch cảnh chung tương quan
thuận với tuổi; thời gian mãn kinh (TGMK);
huyết áp tâm thu (HATT); huyết áp tâm
trương (HATTr); vòng bụng (VB); Insulin;
Triglycerid (TG); hsCRP và tương quan nghịch
với HDL‐C. IMT ĐMCC không có tương quan
với tuổi mãn kinh (TMK), BMI, estradiol,
testosterone, glucose máu lúc đói, Cholesterol
toàn phần (CT) và LDL‐C.
Tương quan hồi quy đa biến giữa IMT với
các yếu tố nguy cơ mạch máu
Bảng 2: Tương quan hồi quy đa biến giữa IMT
ĐMCC với các YTNCMM
B β t p
(Constant) -0,266
TGMK (năm) 0,005 0,182 2,555 < 0,05
HATT (mmHg) 0,002 0,216 2,938 < 0,01
VB (cm) 0,005 0,197 2,198 < 0,05
Insulin µU/ml 0,003 0,175 2,208 < 0,05
HDL (mmol/L) -0,117 -0,237 -3,237 < 0,01
TG (mmol/L) 0,013 0,148 1,993 < 0,05
Qua khảo sát tương quan hồi quy đơn biến,
xác định yếu tố nào có tương quan với IMT, tiến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 77
hành khảo sát tương quan hồi quy đa biến giữa
IMT với các yếu tố này, chúng tôi nhận thấy
IMT chỉ tương quan có ý nghĩa thống kê với một
số yếu tố nguy cơ: tương quan nghịch với nồng
độ HDL‐C, và tương quan thuận với HATT, VB,
TGMK, nồng độ insulin máu lúc đói và TG.
Từ giá trị tuyệt đối của hệ số β, xét các yếu tố
nguy cơ có mức ảnh hưởng làm tăng IMT nhiều
nhất theo thứ tự là: giảm nồng độ HDL‐C, tăng
huyết áp tâm thu, tăng vòng bụng, tăng thời
gian mãn kinh, tăng nồng độ Insulin máu lúc
đói và tăng TG.
Phương trình tương quan hồi quy đa biến
giữa IMT với các yếu tố nguy cơ mạch máu trên
được biểu diễn như sau: y = 0,005 x (TGMK) +
0,002 x (HATT) + 0,005 x (VB) + 0,003 x (Insulin)
– 0,117 x (HDL‐C) + 0,013 x (TG) – 0,266.
BÀN LUẬN
Tăng độ dày độ dày lớp nội trung mạc (tăng
IMT) là cơ sở để hình thành và phát triển mảng
vữa xơ động mạch, tăng IMT làm tăng nguy cơ
mắc phải bệnh tim mạch và đột quỵ. Qua khảo
sát mối tương quan giữa IMT với các yếu tố
nguy cơ mạch máu của 130 PNMK mắc HCCH
chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Tương quan giữa IMT với tuổi và thời gian
mãn kinh.
PNMK có tuổi đời cao cũng đồng nghĩa có
khoảng TGMK dài, qua kết quả nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận có tương quan thuận giữa
IMT với cả tuổi và TGMK. Xét mức độ ảnh
hưởng trên tương quan hồi quy đa biến thì mức
độ ảnh hưởng của TGMK có ý nghĩa thống kê.
Baroncini (2008) phân tích trên 555 người
có tuổi đời 67,6 ± 11,7 năm, Halenka (2010)
nghiên cứu trên 82 người có tuổi đời trung
bình 62 tuổi, Nguyễn Hải Thủy nghiên cứu
trên 243 người, có tuổi đời trên 70 là 58,85%.
Tất cả các nghiên trên đều cho rằng IMT tăng
về tỉ lệ và độ dày theo tuổi.
Meyer và cộng sự (2009) cho rằng sự thiếu
hụt estrogen trầm trọng, kéo dài ở phụ nữ mãn
kinh làm xuất hiện hiện tượng methyl hóa AND
tại vùng hoạt hóa (promoter) của các thụ thể
estrogen α và β (estrogen receptor α, estrogen
receptor β), do đó làm thay đổi cấu trúc của thụ
thể estrogen dẫn đến mất chức năng đáp ứng
đối với tác động của estrogen và làm tăng nguy
cơ gây VXĐM ở PNMK.
Độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh
chung ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng
chuyển hóa tăng theo tuổi và TGMK.Trong đó
mức độ ảnh hưởng của TGMK làm tăng IMT
nhiều hơn tuổi và có ý nghĩa thống kê.
Tương quan giữa IMT với VB, BMI,
HATT, HATTr
Zivkovic (2010) cho rằng phụ nữ thường tích
tụ mỡ trong ổ bụng nhiều hơn khi họ đi qua thời
kỳ mãn kinh. Tăng tích tụ mỡ ở bụng thường
gặp nhất ở PNMK mắc HCCH. Yu (2009) nghiên
cứu trên 518 phụ nữ mãn kinh có tuổi đời từ 50
đến 64, kết luận: vòng bụng có liên quan đến
IMT ĐMCC. Tăng vòng bụng làm tăng IMT và
tăng tỉ lệ có MVX. Chien (2008) nghiên cứu trên
2190 người Trung Quốc, không có bệnh tim
mạch, theo dõi trong 10,5 năm, ghi nhận: vòng
bụng có liên quan với IMT, tăng vòng bụng làm
tăng IMT và tăng nguy cơ đột quỵ.
Qua khảo sát siêu âm động cảnh 130 PNMK
mắc HCCH chúng tôi cũng nhận thấy có tương
quan thuận giữa IMT với VB
Tăng vòng bụng ở PNMK mắc HCCH làm
tăng độ dày lớp nội trung mạc, tăng nguy cơ
mắc phải bệnh tim mạch và đột quỵ.
Trái ngược với VB, chúng tôi không thấy có
tương quan giữa IMT với BMI.
Montalcini (2007) nghiên cứu trên 313
PNMK, với mục tiêu là xem xét PNMK mắc
HCCH và PNMK từ thừa cân đến béo phì theo
BMI, có liên quan gì đến tình trạng vữa xơ động
mạch cảnh, kết luận: tăng IMT ĐMCC có liên
quan đến HCCH, còn tăng BMI từ thừa cân đến
béo phì thì không. Johnson (2010), nghiên cứu
trên 203 phụ nữ có tuổi từ 45 đến 60, với mục
tiêu đánh giá IMT tiến triển theo thời gian, ghi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 78
nhận: IMT tăng dần theo thời gian nhưng không
liên quan đến BMI.
Nghiên cứu của Montalcini, Johnson và
chúng tôi phù hợp, có thể BMI không có liên
quan với IMT ĐMCC ở PNMK mắc HCCH.
Về huyết áp, khảo sát trên tương quan hồi
quy đơn biến, có tương quan thuận giữa IMT
với HATT và HATTr. Trên tương quan hồi quy
đa biến chỉ HATT có ảnh hưởng làm tăng IMT
có ý nghĩa thống kê.
Salvatore (2010), khảo sát trên 399 phụ nữ
mãn kinh và 564 phụ nữ tiền mãn kinh, kết luận:
ở phụ nữ mãn kinh có tăng huyết áp làm tăng
nguy cơ vữa xơ động mạch cảnh.
Nghiên cứu của chúng tôi và của Salvatore
cho thấy IMT có tương quan thuận với số đo
huyết áp, tăng huyết áp làm tăng IMT và tăng
nguy cơ hình thành, phát triển mảng vữa xơ
động mạch cảnh.
Trong đó tăng HATT có mức độ ảnh hưởng
làm tăng IMT trên tương quan hồi quy đa biến
có ý nghĩa thống kê.
Tương quan giữa IMT với bilan lipid
Qua khỏa sát tương quan hồi quy đơn và đa
biến giữa IMT với TG, HDL‐C, CT, LDL‐C
chúng tôi nhận thấy IMT chỉ có tương quan
thuận với TG và nghịch với HDL‐C, không có
tương quan với CT, LDL‐C.
Baroncini (2008) phân tích trên 555 người
(có 377 nữ, tuổi trung bình 67,06 ± 12,44) kết
luận: không có sự khác biệt đáng kể giữa tình
trạng tổn thương do vữa xơ động mạch cảnh
với rối loạn lipid máu. Nguyễn Hải Thủy
nghiên cứu 243 bệnh nhân trên 60 tuổi (có 98
nữ) cũng cho rằng: không thấy có liên quan
giữa tổn thương vữa xơ động mạch cảnh
chung với bilan lipid máu.
IMT có tương quan thuận với TG và nghịch
với HDL‐C có thể là một đặc điểm riêng ở
PNMK mắc HCCH. Trong đó giảm nồng độ
HDL‐C có mức độ ảnh hưởng làm tăng IMT
nhiều nhất so với các yếu tố nguy cơ khác.
Tương quan giữa IMT với insulin, hsCRP,
estradiol, testosteron, glucose
Trong khảo sát tương quan hồi quy đơn biến
chúng tôi ghi nhận IMT có tương quan thuậnvới
insulin và hsCRP, nhưng mức độ ảnh hưởng của
insulin lên IMT nhiều hơn và có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) trên tương quan hồi quy đa biến.
Park S.W và cộng sự (2009) khảo sát siêu âm
động mạch cảnh trên 2471 bệnh nhân đái tháo
đường týp 2, có kháng insulin. Kết luận kháng
insulin làm tăng nguy cơ vữa xơ động mạch
cảnh. Ahmad J (2007) khảo sát siêu âm động
mạch cảnh trên 80 người đái tháo đường týp 2
so sánh với 81 người khỏe mạnh và các yếu
nguy cơ gây vữa xơ động mạch, kết luận: IMT
liên quan đáng kể với insulin lúc đói (p < 0,01).
Cao JJ nghiên cứu trên 5417 người không có
bệnh tim mạch và đột quỵ trước đó, có tuổi đời
lớn hơn 65 tuổi, theo dõi trong 10,2 năm có 469
người bị đột quỵ, Phân tích tương quan giữa
IMT với nồng độ CRP trên những người bị đột
quỵ, Cao kết luận: tăng CRP là tăng yếu tố nguy
cơ đột quỵ, có liên quan với IMT ( p < 0,02).
Tăng insulin, tăng hsCRP làm tăng IMT
ĐMCC ở PNMK mắc HCCH. Tăng insulin có
mức độ ảnh hưởng làm tăng IMT nhiều hơn
hsCRP.
Glucose ≥ 5,6mmol/L là một thành tố của
HCCH, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi
không thấy có tương quan giữa IMT với nồng
độ glucose huyết tương.
Brohall (2009) nghiên cứu trên 393 phụ nữ có
độ tuổi trung bình 64, so sánh IMT ĐMCC của
205 người có giảm dung nạp glucose với 188 có
dung nạp glucose bình thường, kết luận: IMT
ĐMCC không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Yu
(2009) nghiên cứu trên 518 PNMK, có tuổi đời 64
tuổi, khảo sát các yếu tố nguy cơ gây tổn thương
vữa xơ động mạch cảnh, kết luận: đường máu
lúc đói ít có liên quan với IMT.
Tương tự chúng tôi cũng không thấy có
tương quan giữa IMT với Estradiol và
testosteron. Có thể nồng độ estradiol và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 79
testosteron dao động rất lớn trên mỗi cá thể và
chúng tôi chưa có phương tiện để định lượng
nồng độ estradiol nội sinh và testosteron sinh
khả dụng (Bioavailable testosterone) nên đánh
giá về mối liên quan này chưa thật đầy đủ và
chính xác. Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu thêm.
KẾT LUẬN
Độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh
chung ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng
chuyển hóa có tương quan thuận với tuổi, thời
gian mãn kinh, vòng bụng, huyết áp tâm thu,
huyết áp tâm trương, triglycerid, insulin, hsCRP
và tương quan nghịch với lipoprotein tỉ trọng
cao. Trong đó các yếu tố nguy cơ có mức ảnh
hưởng làm tăng IMT nhiều nhất theo thứ tự là:
giảm nồng độ HDL‐C, tăng huyết áp tâm thu,
tăng vòng bụng, tăng thời gian mãn kinh, tăng
nồng độ Insulin máu lúc đói và tăng TG.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. European sociaty of cardiology (2003), Guidelines for the
management of arteriel hypertension, Journal of hypertension;
21: 1011‐ 1053
2. Heidari R, et al (2010). “Metabolic syndrome in menopausal
transition: Isfahan Healthy Heart Program, a population
based study”, Diabetology & Metabolic syndrome, 2, pp. 59.
3. Huỳnh Văn Minh (2008), “Cập nhật khuyến cáo chẩn đoán và
điều trị tăng huyết áp người lớn”, www.huemed‐univ.edu.vn.
4. International Diabetes Federation (